Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - Hỏi đáp X - Hỏi đáp X - Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

H làm nghề lái xe ôm. Một hôm, H cho B là người hàng xóm mượn xe để về quê, từ quê lên, do uống rược say nên B đã lao xe vào gốc cây bên đường khiến xe bị hư hỏng rất nặng. Xe hỏng khiến H không thể chở khách được, thu nhập của H bị giảm sút. Vậy khi H có yêu cầu thì B có phải bồi thường tổn hại cho A không?

Hiện nay bồi thường tổn hại hợp đồng xảy ra rất phổ biến. Tuy nhiên, việc xác định trách nhiệm bồi thường tổn hại ngoài hợp đồng còn rất khó xác định. Vậy trách nhiệm bồi thường tổn hại ngoài hợp đồng được quy định thế nào? Ai là người chịu trách nhiệm bồi thường tổn hại ngoài hợp đồng? Mời các bạn cân nhắc bài viết dưới đây về điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường tổn hại ngoài hợp đồng

Văn bản hướng dẫn

  • Bộ luật dân sự 2015

Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường tổn hại ngoài hợp đồng

Theo quy đinh Điều 585 bộ luật dân sự 2015 : “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây tổn hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác“

Quy định này nhằm mục đích bù đắp phần nào tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị tổn hại (không xét đến lỗi của người bị tổn hại trong trường hợp này) vì trong nhiều trường hợp, dù người gây tổn hại không có lỗi nhưng tổn hại thực tiễn đã xảy ra.

Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường tổn hại ngoài hợp đồng ?

Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường tổn hại ngoài hợp đồng được xác định dựa trên bốn yếu tố sau đây:

Có tổn hại xảy ra

Thiệt hại xảy ra là tiền đề của trách nhiệm bồi thường tổn hại bởi mục đích của việc áp dụng trách nhiệm là khôi phục tình trạng tài sản cho người bị tổn hại, do đó không có tổn hại thì không đặt ra vấn đề bồi thường cho dù có trọn vẹn các điều kiện khác. Thiệt hại là những tổn thất thực tiễn được tính thành tiền, do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức.

Trong trách nhiệm hình sự đối với một số tội có cấu thành hành thức thì không đòi hỏi có hậu quả vật chất. Ngay đối với một số tội có cấu thành vật chất thì trọng một số trường hợp cá biệt, hậu quả chưa xảy ra nhưng do tính chất của hành vi nguy hiểm có khả năng gây ra hậu quả lớn cũng đã cấu thành tội phạm hoặc ngược lại, đối với một số tội như tội thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc vi phạm các quy định về an toàn giao thông thì phải có tổn hại nghiêm trọng mới cấu thành tội phạm.

Nhưng trong trách nhiệm dân sự chỉ cần có tổn hại dù không nghiêm trọng cũng phải bồi thường. Vì tổn hại là điều kiện bát buộc phải có trong trách nhiệm bồi thường tổn hại ngoài hợp đồng, không có tổn hại thì không phải bồi thường vì vậy trước tiên cần xác định thế nào là tổn hại.

Xác định thế nào là tổn hại dựa vào các nội dung sau:

  • Thiệt hại về tài sản: biểu hiên cụ thể là mất tài sản, giảm sút tài sản, những chi phí để ngăn chăn, hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản. Đây là những tổn hại vật chất của người bị thiệt hịa.
  • Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe làm phát sinh tổn hại về vật chất: gồm chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực tiễn bị mất, bị giảm sút do tổn hại về tính mạng, sức khỏe.
  • Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại: gồm chi phí hợp lí để ngăn chăn, khắc phục tổn hại, thu nhập thực tiễn bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại.
  • Tổn hại về tinh thần.

Về nguyên tắc, đời sống tinh thần không thể giá trị được bằng tiền theo nguyên tắc ngang giá trị như trong trao đổi và không thể phục hồi được. Nhưng với mục đích an ủi, động viên đối với người bị tổn hại về tinh thần cũng như một biện pháp giáo dục nhằm ngăn chặn người có hành vi trái pháp luật, BLDS quy định người xâm hại phải ” bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần” cho người bị tổn hại, người thân thích của người đó phải gánh chịu.

Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường tổn hại ngoài hợp đồng

Hành vi gây tổn hại là hành vi trái pháp luật

Quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản là một quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người đều phải tôn trọng những quyền đó của chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào “xâm phạm” đến các quyền tuyệt đối đó.

Điều 584 BLDS quy định “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây tổn hại thì phải bồi thường” Điều luật này xuất phát từ nguyên tắc chung của pháp luật dân sự được quy định tại Điều 3 BLDS ” Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.”

Việc xâm phạm mà gây tổn hại có thể là hành vi vi phạm pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kể cả những hành vi vi phạm đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, vi phạm các quy tắc sinh hoạt trong từng cộng đồng dân sư.

Hành vi gây tổn hại thông thường thể hiện dưới dạng hành động. Chủ thể đã thực hiện hành vi mà đáng ra không được thực hiện các hành vi đó.

Lỗi của người gâỵ ra tổn hại

Về nguyên tắc, một người bị áp dụng cưỡng chế nhà nước thì họ phải có hành vi vi phạm pháp luật do lỗi cố ý hoặc vô ý. Tuy nhiên trong quan hệ dân sự có những trường hợp ngoại lệ là người không có hành vi trái pháp luật, không có lỗi vẫn phải chịu trách nhiệm dân sự,..

Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây tổn hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho tổn hại xảy ra.

Lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây tổn hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước tổn hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây tổn hại nhưng cho rằng tổn hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

Có mối liên hệ nhân quả giữa tổn hại và hành vi trái pháp luật

Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của tổn hại xảy ra. Điều này được quy định tại Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015 dưới dạng: “người nào… xâm phạm… mà gây tổn hại” thì phải bồi thường. Ở đây có thể thấy hành vi “xâm phạm” đến tính mạng, tài sản… là nguyên nhân và tổn hại là hậu quả của hành vi đó. Tuy nhiên, xác định mối tương quan nhân quả là vấn đề rất phức tạp. Phạm trù nguyên nhân và kết quả là cặp phạm trù trong triết học. Nhân quả là mối liên hệ nội tại, khách quan và tất yếu giữa các hiện tượng tự nhiên cũng như xã hội, trong đó một là nguyên nhân và sau nó là kết quả.

Việc xác định mối quan hệ nhân quả chính là sự liên hệ khách quan đó. Nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả và kết quả là hậu quả của nguyên nhân. Xem xét mối liên hệ nhân quả giữa các hiện tượng xã hội, trong đó con người sinh sống và hoạt động phức tạp hơn nhiều so với các hiện tượng tự nhiên khác. Vì vậy, việc xem xét chỉ có ý nghĩa khi hành vi của con người và hậu quả của hành vi đó được đánh giá dưới góc độ xã hội, trong đó đặc biệt chú trọng đến hành vi của con người, liên quan đến con người vào thời gian có hành vi và hậu quả xảy ra.

Việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và tổn hại xảy ra trong nhiều trường hợp rất khó khăn. Vì vậy, cần phải xem xét, phân tích, đánh giá tất cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan và toàn diện. Từ đó mới có thể rút ra được kết luận chính xác về nguyên nhân, xác định đúng trách nhiệm của người gây ra tổn hại.

Liên hệ ngay

Trên đây là tư vấn về “Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường tổn hại ngoài hợp đồng”. Mong rằng các kiến thức trên có thể giúp ích cho bạn trong cuộc sồng hằng ngày. Hãy theo dõi chúng tôi để biết thêm nhiều kiến thức bổ ích. Và nếu quý khách có nhu cầu soạn thảo hồ sơ ngừng kinh doanh; hoặc muốn sử dụng dịch vụ tra cứu thông tin quy hoạch của chúng tôi; mời quý khách hàng liên hệ đến hotline để được tiếp nhận.

Liên hệ hotline: 1900.0191. Hoặc bạn có thể cân nhắc thêm các kênh sau:

  • FB: www.facebook.com/lvngroup
  • Tiktok: https://www.tiktok.com/@lvngroup
  • Youtube: https://www.youtube.com/Lvngroupx

Bài viết có liên quan:

  • Bảo hiểm xe ô to khi bị tai nạn bồi thường thế nào?
  • Thiệt hại do thiên tai gây ra có được bồi thường không?
  • Làm hư hỏng tài sản của công ty, người lao động phải bồi thường thế nào?

Giải đáp có liên quan

Quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường tổn hại ngoài hợp đồng do thực phẩm không an toàn gây ra cho người tiêu dùng?

Khi thực phẩm được sản xuất và cung cấp cho người tiêu dùng thì thường có sự tham gia của nhiều chủ thể và trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Do đó, nếu thực phẩm không an toàn thì chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường có thể là một hoặc nhiều chủ thể khác nhau.
Theo Luật An toàn thực phẩm năm 2010 thì bảo đảm an toàn thực phẩm là “trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm…” và“tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây tổn hại thì phải bồi thường và khắc phục hậu quả theo hướng dẫn của pháp luật”.

Bồi thường tổn hại ngoài hợp đồng là gì?

Bồi thường tổn hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự không phát sinh từ quan hệ hợp đồng, người nào có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, uy tín, quyền lợi hợp pháp của người khác mà gây tổn hại thì phải bồi thường.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com