Lĩnh vực thương mại không chỉ phát sinh trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà còn vượt ra ngoài cả phạm vi quốc tế. Việc mua bán, trao đổi hàng hoá, cung ứng dịch cụ còn được thực hiện giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau với nhau. Từ đó phát sinh quan hệ thương mại giữa các chủ thể. Đây chính là các quan hệ thương mại có yếu tố nước ngoài. Các chủ thể trên cơ sở thoả thuận nên hợp đồng để thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên. Vậy hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài được quy định thế nào? Các xác định hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài? Pháp luật được áp dụng trong hợp đồng thế nào? Để làm rõ vấn đề này, LVN Group xin giới thiệu bài viết “Hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài“. Mời bạn đọc cùng cân nhắc.
Văn bản hướng dẫn
- Bộ luật dân sự 2015
- Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
- Luật Trọng tài thương mại 2010 số 54/2010/QH12 ban hành bởi Quốc hội
- Luật Thương Mại 2005
- Nghị định 22/2017/NĐ – CP
Thế nào là Hợp đồng thương mại?
Trước khi tìm hiểu khái niệm hợp đồng thương mại, ta cùng đi tìm hiểu xem hợp đồng là gì?
Theo Điều 385 Bộ luật dân sự 2015 của Việt Nam quy định về khái niệm hợp đồng như sau:
“Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”
Theo căn cứ trên có thể thấy pháp luật Việt Nam quy định về hợp đồng là sự thỏa thuận thực hiện, thay đổi hoặc chấm dứt của các bên theo đó thể hiện quyền và nghĩa vụ mà các bên thống nhất ý chí nhằm đáp ứng quyền lợi của mỗi bên.
Với hợp đồng thương mại, Hợp đồng thương mại là thoả thuận giữa thương nhân với thương nhân, thương nhân với các bên có liên quan nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ giữa các bên trong hoạt động mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và xúc tiến thương mại.
Trong đó Hợp đồng thương mại có các đặc điểm pháp lý cơ bản sau:
+Lĩnh vực phát sinh quan hệ hợp đồng là lĩnh vực thương mại, bao gồm các lĩnh vực thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ. Đối tượng hợp đồng tương tự như đối tượng của hợp đồng dân sự, hợp đồng ương lĩnh vực thương mại có đối tượng là hàng hoá hoặc dịch vụ (công việc).
+Một bên chủ thể của hợp đồng phải là thương nhân. Trong nhiều quan hệ hợp đồng thương mại cả hai bên đều phải là thương nhân như hợp đồng uỷ quyền cho thương nhân, hợp đồng đại lí mua bán hàng hoá;… Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp và cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên, có đăng ký kinh doanh. Thương nhân là chủ thể của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài (trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế). Ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại trong những trường hợp pháp luật quy định cụ thể.
+Mục đích của thương nhân khi tham gia quan hệ hợp đồng là nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình;
+Hình thức của hợp đồng có thể bằng lời nói, hành vi hay văn bản. Đối với hợp đồng mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo hướng dẫn đó. Fax, telex, thư điện tử và các cách thức thông tin điện tử khác cũng được coi là cách thức văn bản.
Hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài được xác định thế nào?
Trong đó hợp đồng là một dạng của giao dịch dân sự thể hiện mối quan hệ giữa các bên của hợp đồng. Vì vậy Hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài chính là hợp đồng có quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Các yếu tố nước ngoài này dược thể hiện tại những trường hợp quy định tại Điều 663 Bộ luật Dân sự năm 2015. Căn cứ như sau:
– Có một trong các bên tham gia hợp đồng là chủ thể (cá nhân, pháp nhân) nước ngoài:
VD: hợp đồng mua bán nông sản được ký kết giữa bên bán là cá nhân ông A mang quốc tịch Việt Nam với bên mua là công ty đăng ký kinh doanh có trụ sở tại Mỹ (mang quốc tịch Mỹ);
+ Các bên tham gia trong hợp đồng đều là cá nhân, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ trong hợp đồng xảy ra tại nước ngoài:
VD: hai doanh nghiệp có giấy phép đăng ký kinh doanh có trụ sở tại Việt Nam nhưng thông qua một hội nghị hợp tác kinh tế tại nước ngoài có ký kết hợp đồng mua bán nông sản tại đó;
+ Các bên tham gia trong hợp đồng đều là cá nhân, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng thực hiện hợp đồng là ở nước ngoài:
VD: hai doanh nghiệp tại Việt Nam có ký kết hợp đồng mua bán linh kiện xe ô tô được sản xuất tại Nhật; trong trường hợp này đối tượng của hợp đồng – tức là linh kiện xe ô tô lại đang ở Nhật Bản.
Vì vậy để xác định một hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài ta cần xác định dựa vào một trong 3 yếu tố trên: chủ thể tham gia; căn cứ xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ trong hợp đồng và đối tượng thực hiện hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Hiện nay loại hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài phổ biến nhất chính là hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài phổ biến nhất.
Hoạt động thương mại quốc tế được thực hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau như thương mại hàng hóa, thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, thương mại trong lĩnh vực đầu tư…Trong đó các giao dịch trong lĩnh vực thương mại hàng hóa luôn diễn ra sôi động nhất, giữ vị trí trung tâm trong các giao dịch thương mại quốc tế.
Các giao dịch trong lĩnh vực thương mại hàng hóa quốc tế được thực hiện chủ yếu thông qua các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý hiên nay không có một khái niệm thống nhất về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Luật thương mại năm 2005 của Việt Nam và pháp luật của nhiều nước cũng như các văn bản pháp lí quốc tế điều chỉnh các loại hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dựa trên cơ sở dấu hiệu lãnh thổ hay nói chính xác hơn là địa điểm hoạt động thương mại của thương nhân.
Hiện nay hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được quy định tại các văn bản pháp luật quốc tế như: Công ước NewYork 1974 về thời hiệu tố tụng trong hợp đồng mua bán hàng quốc tế, Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Công ước LaHaye 1986 về luật áp dụng cho hợp đồng mua bán quốc tế được xây dựng trong phạm vi UNCITRAL, Công ước Genevơ 1983 về uỷ quyền trong mua bán quốc tế, các công ước Ottawa năm 1988 về thuê tài chính quốc tế và về bao thanh toán quốc tế .
Theo các văn bản này xác định hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng được kí kết giữa các bên có trụ sở thương mại nằm trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau, nếu như các quốc gia này tham gia công ước hay luật của quốc gia tham gia công ước được áp dụng phù hợp với những quy phạm của luật tư pháp quốc tế.
Tuy nhiên, trong trường hợp khi các bên có nhiều trụ sở thương mại thì theo Điều 10 của Công ước Viên 1980 quy định:
“Nếu một bên có nhiều hơn một địa điểm kinh doanh thì sẽ chọn điểm kinh doanh nào có liên hệ gần nhất với hợp đồng và với việc thực hiện hợp đồng, có quan tâm đến những tình huống mà hai bên đã biết hoặc đã nghĩ đến tại thời gian trước hay ngay khi kí hợp đồng. Nếu một đương sự không có địa điểm kinh doanh thì chọn nơi thường trú của người này làm chuẩn.”
Hiện nay, đã có nhiều quốc gia tham gia Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế, vì vậy có thể nói rằng pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dựa trên dấu hiệu lãnh thổ của các bên kí kết hợp đồng. Việt Nam chúng ta đã tham gia công ước Viên từ năm 2017, và bởi vậy những quy định của công ước Viên 1980 về xác định hợp đồng thương mại quốc tế sẽ được áp dụng tại Việt Nam.
Khi sử dụng thuật ngữ yếu tố “nước ngoài” (foreign) hoặc nhân tố “nước ngoài” thì hàm ý quan hệ được đặt trong hệ quy chiếu với 1 quốc gia cụ thể, quốc gia sở tại. Còn khi sử dụng thuật ngữ yếu tố “quốc tế” (international) hoặc nhân tố “quốc tế”, thì lúc này quan hệ được đề cập với một bối cảnh là sự liên quan tới hơn một quốc gia. Vì vậy, mặc dù việc sử dụng các thuật ngữ có đôi chút khác nhau nhưng việc dùng thuật ngữ nào cũng thể hiện bản chất của quan hệ hợp đồng trong tư pháp quốc tế. Theo đó, vấn đề xung đột pháp luật hoặc áp dụng pháp luật nước ngoài được coi là những điểm đặc trưng của quan hệ hợp đồng trong tư pháp quốc tế.
Việc xác định yếu tố nước ngoài trong hợp đồng có thể không hoàn toàn giống nhau theo các nguồn pháp luật áp dụng. Ví dụ các nguồn như điều ước quốc tế và pháp luật của mỗi quốc gia.
Theo Công ước La Haye 1964 về thống nhất việc mua bán hàng hoá quốc tế (Convention Relating to the Uniform Law on International Sale of Goods) thì, hợp đồng mua bán hàng hoá sẽ mang yếu tố nước ngoài nếu các bên tham gia hợp đồng có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, khi:
“Hàng hóa trong hợp đồng được chuyên chở từ lãnh thố quốc gia này sang lãnh thổ quốc gia khác, hành vi chào hàng và chấp nhận chào hàng được thực hiện trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau và việc giao hàng được thực hiện trên lãnh thổ của một quốc gia khác với quốc gia nơi tiến hành chào hàng hoặc hành vi chấp nhận chào hàng” .
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, yếu tố “quốc tế” trong một hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, một loại hợp đồng điển hình trong tư pháp quốc tế, đã được xác định và ghi nhận trong pháp luật dân sự cụ thể trong Bộ luật dân sự và bộ luật tố tụng dân sự cùng các văn bản pháp luật có liên quan như đã đề cập phía trên.
Pháp luật áp dụng trong hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài
Căn cứ Điều 683 Bộ luật dân sự 2015 quy định về cách xác định pháp luật áp dụng đối với hợp đồng có yếu tố nước ngoài như sau:
“1. Các bên trong quan hệ hợp đồng được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều này. Trường hợp các bên không có thỏa thuận về pháp luật áp dụng thì pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng đó được áp dụng.
2. Pháp luật của nước sau đây được coi là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng:
a) Pháp luật của nước nơi người bán cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng mua bán hàng hóa;
b) Pháp luật của nước nơi người cung cấp dịch vụ cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng dịch vụ;
c) Pháp luật của nước nơi người nhận quyền cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ;
d) Pháp luật của nước nơi người lao động thường xuyên thực hiện công việc đối với hợp đồng lao động. Nếu người lao động thường xuyên thực hiện công việc tại nhiều nước khác nhau hoặc không xác định được nơi người lao động thường xuyên thực hiện công việc thì pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng lao động là pháp luật của nước nơi người sử dụng lao động cư trú đối với cá nhân hoặc thành lập đối với pháp nhân;
đ) Pháp luật của nước nơi người tiêu dùng cư trú đối với hợp đồng tiêu dùng.
3. Trường hợp chứng minh được pháp luật của nước khác với pháp luật được nêu tại khoản 2 Điều này có mối liên hệ gắn bó hơn với hợp đồng thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước đó.
4. Trường hợp hợp đồng có đối tượng là bất động sản thì pháp luật áp dụng đối với việc chuyển giao quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là bất động sản, thuê bất động sản hoặc việc sử dụng bất động sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là pháp luật của nước nơi có bất động sản.
5. Trường hợp pháp luật do các bên lựa chọn trong hợp đồng lao động, hợp đồng tiêu dùng có ảnh hưởng đến quyền lợi tối thiểu của người lao động, người tiêu dùng theo hướng dẫn của pháp luật Việt Nam thì pháp luật Việt Nam được áp dụng.
6. Các bên có thể thỏa thuận thay đổi pháp luật áp dụng đối với hợp đồng nhưng việc thay đổi đó không được ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba được hưởng trước khi thay đổi pháp luật áp dụng, trừ trường hợp người thứ ba đồng ý.
7. Hình thức của hợp đồng được xác định theo pháp luật áp dụng đối với hợp đồng đó. Trường hợp cách thức của hợp đồng không phù hợp với cách thức hợp đồng theo pháp luật áp dụng đối với hợp đồng đó, nhưng phù hợp với cách thức hợp đồng theo pháp luật của nước nơi giao kết hợp đồng hoặc pháp luật Việt Nam thì cách thức hợp đồng đó được công nhận tại Việt Nam“.
Liên hệ ngay
Trên đây là tư vấn về “Hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài”. Nếu cần giải quyết nhanh gọn các vấn đề liên quan tới hồ sơ, thủ tục đăng ký khai sinh, cấp lại giấy khai sinh và muốn cân nhắc tờ khai đăng ký lại khai sinh, hoặc các vấn đề pháp lý khác thì hãy liên hệ ngay tới LVN Group để chúng tôi nhanh chóng tư vấn hỗ trợ và giải quyết vụ việc. Với các LVN Group có chuyên môn cao cùng kinh nghiệm dày dặn, chúng tôi sẽ hỗ trợ 24/7, giúp bạn tiết kiệm chi phí và ít đi lại.
Liên hệ hotline: 1900.0191. Hoặc bạn có thể cân nhắc thêm các kênh sau:
- FB: www.facebook.com/lvngroup
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@lvngroup
- Youtube: https://www.youtube.com/Lvngroupx
Mời bạn xem thêm:
- Đặc điểm giải quyết tranh chấp thương mại bằng tòa án là gì?
- Mẫu hợp đồng thương mại quốc tế mới năm 2022
- Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp kinh doanh thương mại là gì?
Giải đáp có liên quan
Tùy theo từng loại hợp đồng thương mại quốc tế mà đối tượng của hợp đồng sẽ khác nhau.
– Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: Hàng hóa;
– Hợp đồng cung ứng dịch vụ: Một công việc cụ thể;
– Hợp đồng chuyển giao công nghệ: Bí quyết, kiến thức kỹ thuật về công nghệ, các giải pháp kỹ thuật, phần mềm máy tính, sơ đồ kỹ thuật…
Với hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài thì có các phương thức thanh toán và cách thức thanh toán như:
– Người mua thanh toán trực tiếp cho người bán mà không thông qua bên thứ ba;
– Ngân hàng thay mặt bên bán thu hộ một khoản tiền từ bên mua trên cơ sở hối phiếu và/ hoặc chứng từ giao hàng;
– Ngân hàng phát hành Thư tín dụng (L/C) sẽ cam kết trả một số tiền nhất định hoặc chấp nhận Hối phiếu do người thụ hưởng ký phát, nếu người này xuất trình bộ chứng từ thanh toán hợp lệ với nội dung quy định của Thư tín dụng.
Hình thức hợp đồng được quy định rất khác nhau trong pháp luật của các quốc gia và pháp luật quốc tế.
Điều 96 của Công ước Viên 1980 quy định tôn trọng cách thức hợp đồng bằng văn bản;
Điều 27 Luật thương mại Việt Nam 2005 thì mua bán hàng hóa quốc tế phải được thể hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng cách thức khác có giá trị pháp lý tương đương.
Quy định này giúp các bên có thể tránh được được tối đa các hậu quả pháp lý bất lợi, những rủi ro và tranh chấp không đáng có cũng như các tổn hại có thể xảy ra.