Khi thực hiện khám xét hiện trường thì đơn vị có thẩm quyền phải thực hiện theo thủ tục pháp luật quy định. Vậy biện pháp khám xét trong điều tra tội phạm được quy định thế nào? Trình tự khám xét trong điều tra tội phạm được quy định thế nào? Hãy cân nhắc bài viết dưới đây của LVN Group để biết thêm thông tin chi tiết nhé!
Văn bản hướng dẫn
- Bộ luật tố tụng hình sự 2015
Biện pháp khám xét trong điều tra tội phạm
Khám xét là biện pháp điều tra được tiến hành bằng cách tìm tòi, lục soát khi có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ công tác, địa điểm của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm nhằm phát hiện, thu giữ công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có, đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án cũng như xác chết hay người đang bị truy nã.
Căn cứ khám xét
Cơ quan có thẩm quyền chỉ được khám xét người, chỗ ở, nơi công tác, địa điểm, phương tiện khi có “căn cứ” để nhận định trong người, chỗ ở, nơi công tác, địa điểm, phương tiện có công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đô vật, dữ liệu điện tử, tài liệu khác cố liên quan đến vụ án.
Chỉ được khám xét người, chỗ ở, nơi công tác, địa điểm, phương tiện khi có căn cứ
“Căn cứ” để nhận định là kết quả của các hoạt động điều tra như lấy lời khai người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, người làm chứng, khám nghiệm hiện trường, các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
Khi phát hiện người đang bị truy nã, truy tìm và giải cứu nạn nhân cũng phải tiến hành việc khám xét chỗ ở, nơi công tác, địa điểm, phương tiện.
Tương tự như vậy, khi có căn cứ để nhận định trong thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử cố công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản liên quan đến vụ án thì có thể khám xét thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử.
Thẩm quyền khám xét
Thẩm quyền ra lệnh khám xét
Khoản 1, điều l93 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định về thẩm quyền ra lệnh khám xét. Theo đó, những người có thẩm quyền ra lệnh khám xét gồm có:
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
- Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trường, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
- Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp, hội đồng xét xử;
- Người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư … quy định tại khoản 2 điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Vì vậy, thẩm quyền ra lệnh khám xét được trao rộng cho người tiến hành tố tụng của cả 3 đơn vị: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án nhằm đảm bảo hiệu quả của biện pháp điều tra này.
Thẩm quyền khám xét trong trường hợp khẩn cấp
Khoản 2, điều 193 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 cũng quy định những người có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp quy định tại khoản 2 điều 110 có quyền ra lệnh khám xét trong trường hợp khẩn cấp, bao gồm:
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
- Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biên, Đoàn trường Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biên; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng;
- Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi khám xét xong, người ra lệnh khám xét phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ việc, vụ án.
Cơ quan kiểm sát hoạt động khám xét
Khoản 3, điều 193 Bộ luật Tố tụng hình sự cũng đã quy định rõ về việc kiểm sát hoạt động khám xét.
Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc khám xét
Khám xét là biện pháp điều tra có tính cưỡng chế và tác động trực tiếp tới các quyền cơ bản hiến định của công dân. Trước khi tiến hành khám xét, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian và địa điểm tiến hành khám xét để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc khám xét, trừ trường hợp khám xét khẩn cấp. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc khám xét. Nếu Kiểm sát vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản khám xét.
Mọi trường hợp khám xét đều được lập biên bản theo hướng dẫn tại Điều 178 của Bộ luật Tố tụng hình sự và đưa vào hồ sơ vụ án.
Thủ tục khám xét theo Bộ luật Tố tụng Hình sự
Trước khi tiến hành khám xét
- Những người có thẩm quyền theo Khoản 2 Điều 35, Khoản 1 Điều 113 BLTTHS 2015 cần ra lệnh khám xét. Lệnh khám xét của những người được quy định tại khoản 2 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 113 của BLTTHS 2015 phải được VKS có thẩm quyền phê chuẩn trước khi thi hành.
- Trong trường hợp khẩn cấp, những người có thẩm quyền ra lệnh giữ người khẩn cấp theo Khoản 2 Điều 110 BLTTHS 2015 có quyền ra lệnh khám xét.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi khám xét xong, người ra lệnh khám xét phải thông báo bằng văn bản cho VKS cùng cấp hoặc VKS có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ việc, vụ án.
- Trước khi tiến hành khám xét, Điều tra viên phải thông báo cho VKS cùng cấp về thời gian và địa điểm tiến hành khám xét để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc khám xét, trừ trường hợp khám xét khẩn cấp. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc khám xét. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản khám xét.
Mọi trường hợp khám xét đều được lập biên bản theo hướng dẫn và đưa vào hồ sơ vụ án.
Trong quá trình khám xét
- Đối với chỗ ở của cá nhân thì phải có mặt người đó hoặc người từ đủ 18 tuổi trở lên cùng chỗ ở, có uỷ quyền chính quyền xã, phường, thị trấn và người chứng kiến.
- Đối với nơi công tác của cá nhân thì phải có mặt người đó, trừ trường hợp không thể trì hoãn nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
Liên hệ ngay
Trên đây là tư vấn của LVN Group về vấn đề “Biện pháp khám xét trong điều tra tội phạm“. Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến thủ tục đăng ký bảo hộ logo, đăng ký nhãn hiệu của LVN Group , hãy liên hệ: 1900.0191 . Mặt khác , để được tư vấn cũng như trả lời những câu hỏi của khách hàng trong và ngoài nước thông qua web Lvngroupx.vn, lsx.vn, web nước ngoài Lsxlawfirm,…
Có thể bạn quan tâm
- Khi nào băng ghi âm la chứng cứ trong vụ án dân sự?
- Mẫu sơ yếu lý lịch không cần công chứng mới 2022
- Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về nguồn chứng cứ
Câu hỏi thường gặp
Khám xét là một trong những biện pháp cưỡng chế của tố tụng hình sự tác động đến các quyền con người, quyền của công dân nên chỉ được khám xét khi có trọn vẹn những căn cứ do pháp luật quy định.
Khám người là hoạt động điều tra lục soát, tìm tòi trong người, quần áo đang mặc và các đồ vật đem theo của bị can, bị cáo, người bị bắt giữ trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc người có mặt ở nơi khám xét mà có căn cứ để khẳng định người này giấu trong người đồ vật, tài liệu cần thu giữ nhằm mục đích phát hiện và thu giữ những đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án.
Về nguyên tắc, không được bắt đầu khám xét chỗ ở vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp không thể trì hoãn được như xét thấy cần phải khám ngay để ngăn chặn việc tiêu huỷ chứng cứ thì được khám ban đêm nhưng phải ghi rõ lí do vào biên bản.
Điều 195 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:
Khi khám xét chỗ ở thì phải có mặt người đó hoặc người từ đủ 18 tuổi trở lên cùng chỗ ở, có uỷ quyền chính quyền xã, phường, thị trấn và người chứng kiến; trường hợp những người kể trên cố tình vắng mặt, bỏ trốn hoặc vì lý do khác họ không có mặt mà việc khám xét không thể trì hoãn thì việc khám xét vẫn được tiến hành nhưng phải có uỷ quyền chính quyền xã, phường, thị trấn nơi khám xét và hai người chứng kiến.
Đối với nơi công tác khi tiến hành khám xét phải có mặt người đó, trừ trường hợp không thể trì hoãn thì có thể tiến hành khám xét nhưng phải ghi rõ vào biên bản. Phải có sự chứng kiến của uỷ quyền đơn vị, tổ chức nơi người đó công tác. Trong trường hợp không có uỷ quyền đơn vị, tổ chức thì việc khám xét vẫn được tiến hành nhưng phải có uỷ quyền chính quyền xã, phường, thị trấn nơi khám xét và 02 người chứng kiến.
Đối với khám xét địa điểm phải có sự chứng kiến của uỷ quyền chính quyền xã, phường thị trấn nơi khám xét và người chứng kiến.
Việc khám xét phương tiện phải có mặt chủ sở hữu hoặc người quản lý phương tiện và người chứng kiến. Trường hợp chủ sở hữu hoặc người quản lý phương tiện vắng mặt, bỏ trốn hoặc vì lý do khác họ không có mặt mà việc khám xét không thể trì hoãn thì việc khám xét vẫn được tiến hành nhưng phải có hai người chứng kiến.
Khi tiến hành khám xét chỗ ở, nơi công tác, địa điểm, phương tiện, những người có mặt không được tự ý rời khỏi nơi đang bị khám, không được liên hệ, trao đổi với nhau hoặc với những người khác cho đến khi khám xét xong.