Theo quy định pháp luật, người dân được tôn trọng sự riêng tư, bảo mật thông tin cá nhân. Hiện nay, có nhiều người ghi âm lén cuộc nói chuyện của người khác nhằm làm bằng chứng để buộc tội hoặc đánh ghen,… Vậy cách ghi âm đó có vi phạm pháp luật không? Ghi âm lén có phạm luật không? Hãy theo dõi bài viết dưới đây của LVN Group để biết thêm thông tin nhé!
Văn bản hướng dẫn
- Luật Viễn thông 2009;
- Hiến pháp 2013;
- Nghị định 15/2020/NĐ-CP
Ghi âm lén có phạm luật không?
Theo Điều 12 Luật Viễn thông 2009 thì các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động viễn thông được quy định như sau:
“Điều 12. Các hành vi bị cấm trong hoạt động viễn thông
1. Lợi dụng hoạt động viễn thông nhằm chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân; tuyên truyền chiến tranh xâm lược; gây hận thù, mâu thuẫn giữa các dân tộc, sắc tộc, tôn giáo; tuyên truyền, kích động bạo lực, dâm ô, đồi trụy, tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc.
2. Tiết lộ bí mật nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối ngoại và những thông tin bí mật khác do pháp luật quy định.
3. Thu trộm, nghe trộm, xem trộm thông tin trên mạng viễn thông; trộm cắp, sử dụng trái phép tài nguyên viễn thông, mật khẩu, khóa mật mã và thông tin riêng của tổ chức, cá nhân khác.
4. Đưa thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân.
5. Quảng cáo, tuyên truyền, mua bán hàng hóa, dịch vụ bị cấm theo hướng dẫn của pháp luật.
6. Cản trở trái pháp luật, gây rối, phá hoại việc thiết lập cơ sở hạ tầng viễn thông, việc cung cấp và sử dụng hợp pháp các dịch vụ viễn thông.”
Bên cạnh đó, Điều 21 Hiến pháp 2013 có đề cập tới quyền riêng tư của con người như sau:
“Điều 21.
1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình.
Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.
2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các cách thức trao đổi thông tin riêng tư khác.
Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các cách thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.”
Do đó, việc ghi âm trái phép các cuộc gọi là hành vi vi phạm pháp luật.
Khi nào ghi âm cuộc gọi trái phép sẽ bị xử lí hành chính?
Theo điểm q khoản 3 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định về vi phạm quy định về lưu trữ, cho thuê, truyền đưa, cung cấp, truy nhập, thu thập, xử lý, trao đổi và sử dụng thông tin thì việc xử lí được quy định như sau:
“Điều 102. Vi phạm quy định về lưu trữ, cho thuê, truyền đưa, cung cấp, truy nhập, thu thập, xử lý, trao đổi và sử dụng thông tin
3. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
…
q) Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật;”
Vì vậy, nếu người khác ghi âm cuộc gọi của bạn trái pháp luật thì khi bị phát hiện, người đó có thể bị phạt hành chính lên đến 20 triệu đồng (đối với tổ chức) và lên đến 10 triệu đồng (đôi với cá nhân) (theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 4 Nghị định 15/2020/NĐ-CP). Bên cạnh đó, bạn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính (theo hướng dẫn tại điểm b khoản 8 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP)
Có bị xử lí hình sự được không theo hướng dẫn pháp luật về ghi âm cuộc gọi?
Theo Điều 159 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 thì khi cá nhân đã bị phạt hành chính rồi mà vẫn còn tiếp tục thực hiện thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, cụ thể:
“Điều 159. Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc cách thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông dưới bất kỳ cách thức nào;
b) Cố ý làm hư hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy các thông tin, nội dung của thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông;
c) Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật;
d) Khám xét, thu giữ thư tín, điện tín trái pháp luật;
đ) Hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc cách thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Tiết lộ các thông tin đã chiếm đoạt, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác;
đ) Làm nạn nhân tự sát.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Vì vậy, quy định pháp luật về ghi âm cuộc gọi đề cập tới mức hình phạt cao nhất là 03 năm tù cùng hình phạt bổ sung với số tiền lên đến 20 triệu đồng và cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định lên đến 05 năm.
Liên hệ ngay
Trên đây là tư vấn của LVN Group về vấn đề “Ghi âm lén có phạm luật không“. Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến đăng ký nhãn hiệu của LVN Group , hãy liên hệ: 1900.0191 . Mặt khác , để được tư vấn cũng như trả lời những câu hỏi của khách hàng trong và ngoài nước thông qua web Lvngroupx.vn, lsx.vn, web nước ngoài Lsxlawfirm,…
Có thể bạn quan tâm
- Khi nào băng ghi âm la chứng cứ trong vụ án dân sự?
- Mẫu sơ yếu lý lịch không cần công chứng mới 2022
- Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về nguồn chứng cứ
Câu hỏi thường gặp
Hiện tại thì không có quy định được phép hoặc không được phép khi ghi âm, ghi hình phiên tòa đối những những đương sự hoặc những đối tượng tham gia phiên tòa khác. Tuy nhiên căn cứ khoản 6 Điều 234 nêu trên:
Không đội mũ, nón, đeo kính màu trong phòng xử án, trừ trường hợp có lý do chính đáng và được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa; không sử dụng điện thoại di động, không hút thuốc, không ăn uống trong phòng xử án hoặc có hành vi khác ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của phiên tòa.
Vậy khi tham gia phiên tòa xét xử, không được phép sử dụng điện thoại di động, trường hợp sử dụng công cụ ghi âm, ghi hình khác thì chủ tọa phiên tòa sẽ xem xét có ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của phiên tòa được không mà cho phép hoặc không cho phép thực hiện việc ghi âm, ghi hình.
Và nếu đã được ghi âm, ghi hình nội dung phiên tòa thì cũng phải tuân thủ quy định về quyền của cá nhân đối với hình ảnh, nếu gây tổn hại, ảnh hưởng quyền và lợi ích của những người có liên quan thì cũng phải chịu trách nhiệm tương ứng.
Căn cứ vào Điều 255 và khoản 2 Điều 254 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 như sau:
Nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh
Theo yêu cầu của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người tham gia tố tụng khác, Kiểm sát viên hoặc khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử cho nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh tại phiên tòa, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 254 của Bộ luật này.
Công bố tài liệu, chứng cứ của vụ án
…
Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, bảo vệ người chưa thành niên theo yêu cầu của đương sự thì Hội đồng xét xử không công bố tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Vì vậy, căn cứ vào tình hình thực tiễn, nếu xét thấy cần thiết thì Hội đồng xét xử có thể cho nghe băng ghi âm, ghi hình trừ trường hợp tại khoản 2 Điều 254 nêu trên.
Chứng cứ bao gồm các đặc điểm sau đây:
Tính khách quan:
– Chứng cứ hình thành và tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.
– Đương sự và các đơn vị tiến hành tố tụng không được tạo ra chứng cứ, nếu vậy tính khách quan sẽ không còn; do đó không thể coi là chứng cứ.
– Con người phát hiện, thu thập và tìm ra chứng cứ, con người nghiên cứu và đánh giá để sử dụng nó.
Tính liên quan:
– Tính liên quan trong vụ việc tố tụng được hiểu là các tình tiết, sự kiện có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với vụ việc mà tòa án đang giải quyết. Chứng cứ là những thông tin làm cơ sở cho việc khẳng định sự tồn tại hoặc không tồn tại của những sự kiện có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ việc dân sự.
– Các sự kiện, tình tiết được coi là chứng cứ khi nó chứa đựng những nội dung gắn liền với việc giải quyết vụ án. Bộ luật tố tụng dân sự và Bộ luật tố tụng hình sự có quy định cụ thể các loại nguồn của chứng cứ, tuy nhiên Tòa án chỉ chọn lọc, đánh giá những gì có thật liên quan đến vụ việc.
– Tính liên quan của chứng cứ có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp: Mối quan hệ trực tiếp là mối quan hệ dựa vào đó có thể xác định ngay các tình tiết, theo hướng dẫn của Bộ luật Tố tụng dân sự xem đây là tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh. Mối liên hệ gián tiếp là mối quan hệ qua khâu trung gian mới tìm được tình tiết, sự kiện. Từ việc đánh giá rõ tình tiết liên quan,
– Tòa án có thể xác định đúng chứng cứ cần sử dụng để giải quyết đúng đắn sự việc dân sự hoặc hình sự mà không để xảy ra trường hợp thừa được không trọn vẹn chứng cứ.
Tính hợp pháp:
– Không phải bất kỳ thông tin thực tiễn nào liên quan đến các tình tiết sự kiện của vụ án đều có thể làm căn cứ cho Tòa án giải quyết vụ án mà chỉ có những thông tin thực tiễn được thu thập, kiểm tra và đánh giá theo trình tự do luật định mới được xem là hợp pháp.
Mặt khác, chỉ có những thông tin thực tiễn thu thập từ những nguồn do luật định mới có thể được coi là chứng cứ.
Chứng cứ phải được pháp luật thừa nhận, các tình tiết, sự kiện chỉ được coi là chứng cứ khi mà pháp luật dân sự quy định nó là một trong những loại nguồn của chứng cứ.
Tính hợp pháp của chứng cứ được xác định một cách cụ thể:
– Phải là một trong các nguồn hợp pháp mà Bộ luật Tố tụng dân sự hoặc Bộ luật tố tụng hình sự quy định;
– Phải là phương tiện chứng minh hợp pháp mà Bộ luật tố tụng dân sự hoặc Bộ luật tố tụng hình sự quy định;
– Phải được giao nộp trong một thời hạn hợp pháp;
– Phải được công bố công khai theo hướng dẫn của Bộ luật tố tụng dân sự hoặc Bộ luật tố tụng hình sự, phải được thu thập cung cấp theo đúng pháp luật tố tụng.