Kính chào LVN Group, hai cụ nhà tôi lấy nhau năm 1966 nhưng không đăng ký ở với nhau. Hiện tại do tuổi già sức yêu mà cụ ông nhà tôi đã mất, chỉ còn lại mỗi cụ gái mà trước khi mất, cụ ông cũng không để lại di chúc gì. LVN Group cho tôi hỏi, vậy với trường hợp của hai cụ nhà tôi không đăng ký ở với nhau trước 1968 thì có được thừa kế được không? Tôi rất mong có thể nhận được sự tư vấn của LVN Group. Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho LVN Group. Để trả lời câu hỏi “Vợ chồng không đăng ký ở với nhau trước 1968 có được thừa kế không?” và cũng như nắm rõ một số vấn đề xoay quanh câu hỏi này. Mời bạn cân nhắc bài viết dưới đây của LVN Group như sau:
Văn bản hướng dẫn:
- Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Pháp luật quy định về quan hệ sống chung như vợ chồng nhưng không đăng kí kết hôn?
Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo hướng dẫn của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”. Vì vậy, chỉ khi thực hiện xong thủ tục và có Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn thì mối quan hệ hôn nhân này mới được pháp luật thừa nhận, bảo vệ. Những quyền và nghĩa vụ của hai bên mới có thể được xác lập và phát sinh.
Do đó, nam nữ tổ chức sống chung với nhau, coi nhau như vợ chồng không đăng ký kết hôn được coi là chung sống như vợ chồng. Căn cứ, tại Khoản 7 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định, “Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng”. Việc chung sống này được chứng minh bằng việc họ có đời sống sinh hoạt chung, có tài sản chung, có con chung với nhau và được mọi người xung quanh thừa nhận là vợ chồng. Thời điểm phát sinh một trong những sự kiện trên sẽ được xác định là thời gian mà nam, nữ bắt đầu cho việc có chung sống như vợ chồng với nhau.
Vậy chung sống như vợ chồng có vi phạm pháp luật không?
Tại Khoản 2 Điều 5 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định về hành vi bị cấm trong quan hệ hôn nhân, trong đó điểm c, d khoản này có liệt kê hành vi chung sống như vợ chồng trái pháp luật như sau:
“c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc không có vợ, không có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
- d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;”.
Vì vậy, nam nữ sống chung như vợ chồng mà không thuộc trường hợp cấm theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng như hai bên nam nữ đã đủ điều kiện đăng ký kết hôn, không đang tồn tại quan hệ hôn nhân nhưng không đăng ký kết hôn mà sống chung thì không vi phạm pháp luật. Tuy nhiên giữa hai bên không phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng.
Luật hôn nhân và gia đình quy định hai trường hợp chung sống như vợ chồng trái pháp luật như trên. Đây là hành vi vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng mà pháp luật đã quy định, làm ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình, trái thuần phong mỹ tục và các quy chuẩn của đạo đức xã hội.
Giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
Có thể nói, trong mối quan hệ giữa nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng không chỉ tồn tại quan hệ giữa hai bên mà còn phát sinh các mối quan hệ về con cái, tài sản. Theo quy định tại Điều 14,15,16 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và văn bản hướng dẫn quy định chi tiết về những vấn đề liên quan đến việc giải quyết hậu quả việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Từ các quy định trên, việc chung sống như vợ chồng mà không đăng ký chia làm 3 trường hợp sau:
- Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987:
Trường hợp này vẫn được Pháp luật công nhận vợ chồng mặc dù không đăng ký kết hôn . Nếu có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo hướng dẫn về ly hôn của Luật Hôn nhân và gia đình 2000.
- Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến nay:
- Trường hợp sóng chung từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001, nếu có đủ điều kiện kết hôn theo hướng dẫn của Luật thì phải đăng ký kết hôn trong thời hạn 2 năm, kể từ ngày Luật Hôn nhân và gia đình 2000 có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003, nếu có yêu cầu ly hôn trong thời hạn này mà họ vẫn chưa đăng ký kết hôn thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
- Trường hợp sống chung kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 đến nay. Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng và các yêu cầu về con và tài sản được Tòa án áp dụng theo hướng dẫn tại Điều 14, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về Giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
Trường hợp nào không đăng ký kết hôn mà vẫn công nhận là vợ chồng?
Căn cứ tại Bản án số 61/2017/HNGĐ-ST ngày 30/08/2017 về xin ly hôn của Toà án nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp như sau:
” Bà Huỳnh Thị Ngọc T và ông Đỗ Văn T sống chung từ năm 1983, không có đăng ký kết hôn.
Thời gian đầu ông, bà chung sống hạnh phúc, đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, không còn hòa hợp. Ông To sống không có trách nhiệm với gia đình, không quan tâm chăm sóc vợ con mà thường xuyên uống rượu và cờ bạc, khi say về nhà lại kiếm chuyện chửi mắng đánh đập vợ con. Bà Tí đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng ông To vẫn không thay đổi mà còn ra tay đánh bà, mặc dù bà đã cố hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không thành. Vợ chồng không còn chung sống từ năm 2012 đến. Nay bà Tí nhận thấy không còn tình cảm với ông To, hai bên không thể hàn gắn được nên yêu cầu được ly hôn với ông Đỗ Văn To.
Mặc dù Bà Huỳnh Thị Ngọc Tí và ông Đỗ Văn To chung sống với nhau không đăng ký kết hôn nhưng tòa án vẫn xác định đây là hôn nhân hợp pháp, việc ly hôn sẽ tuân theo hướng dẫn của luật hôn nhân gia đình” .
Tòa án sau đó đã giải quyết để cho Bà Huỳnh Thị Ngọc T được ly hôn với ông Đỗ Văn T.
Tại bản án, tòa án đã áp dụng Luật hôn nhân gia đình năm 2000, trong luật có quy định như sau:
Điều 11. Đăng ký kết hôn
1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do đơn vị nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi là đơn vị đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức quy định tại Điều 14 của Luật này.
Mọi nghi thức kết hôn không theo hướng dẫn tại Điều 14 của Luật này đều không có giá trị pháp lý.
Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn.
2. Chính phủ quy định việc đăng ký kết hôn ở vùng sâu, vùng xa.
Tuy nhiên, ngày 09 tháng 06 năm 2000 Quốc hội thông qua Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 về thi hành luật hôn nhân và gia đinh năm 2000 đã có hướng dẫn như sau:
3. Việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này được thực hiện như sau:
a. Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Toà án thụ lý giải quyết theo hướng dẫn về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;
…
Việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng có được pháp luật công nhận được không sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến quyền, nghĩa vụ của 2 bên trong thời kì hôn nhân cũng như khi ly hôn. Nếu là hôn nhân hợp pháp, hai bên sẽ được pháp luật bảo vệ, được thừa hưởng những quyền lợi theo pháp luật. Và muốn được pháp luật công nhận thì điều họ cần làm là đăng ký kết hôn. Nhưng tại sao lại có trường hợp không đăng ký kết hôn mà vẫn được công nhận là hôn nhân hợp pháp như trường hợp bản án nêu trên?
Theo quy định trên, nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 (ngày có hiệu lực của Luật hôn nhân và gia đình 1986) dù không đăng ký kết hôn vẫn được công nhận là vợ chồng hợp pháp.
Mặt khác, trong Nghị quyết 35/2000/QH10 còn quy định các trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng khác:
+ Trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn (bắt buộc). Thời hạn đi đăng ký là 02 năm, kể từ ngày 01/01/2001 đến ngày 01/ 01/2003. Nếu sau 01/01/2003 mà họ vẫn không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng hợp pháp.
+ Trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng sau ngày 01/01/2001 mà không đăng ký kết hôn thì không được pháp luật công nhận quan hệ vợ chồng là hợp pháp.
Khi được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp, các quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong hôn nhân sẽ được pháp luật bảo vệ. Ví dụ, tài sản do một hoặc 2 người tạo lập trong thời kỳ hôn nhân (được tính từ ngày đăng ký kết hôn) là đồng sở hữu của vợ chồng nên có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng. Trường hợp sau khi kết hôn, nếu một trong 2 người qua đời thì vấn đề thừa kế được đặt ra như sau:
– Người chết không có di chúc, di sản của họ được chia theo pháp luật, nghĩa là tài sản để lại được chia theo hàng thừa kế: cha, mẹ, vợ, chồng, con của người chết thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
– Người chết viết di chúc, di sản thừa kế được chia theo ước nguyện của họ. Tuy nhiên, những người sau đây cũng được hưởng thừa kế dù không phụ thuộc vào nội dung di chúc, gồm: con chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi), hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động như bị tật nguyền về thể chất hoặc tinh thần; cha, mẹ, vợ hoặc chồng của người chết.
Mặt khác, nếu không đăng ký kết hôn thì về mặt pháp lý, họ là người không có vợ hoặc không có chồng nên có quyền đăng ký kết hôn với người khác, miễn là không vi phạm điều cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình.
Hiện nay, Luật hôn nhân gia đình 2014 đang có hiệu lực thi hành, quy định:
Điều 9. Đăng ký kết hôn
1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do đơn vị nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo hướng dẫn của Luật này và pháp luật về hộ tịch.
Việc kết hôn không được đăng ký theo hướng dẫn tại khoản này thì không có giá trị pháp lý.
Vì vậy, pháp luật hiện hành chỉ công nhận vợ chồng hợp pháp khi họ có đăng ký kết hôn. Những cặp nam nữ đang sống chung với nhau như vợ chồng mà chưa đăng ký kết hôn sẽ không được pháp luật thừa nhận. Vì vậy, vợ chồng khi kết hôn cần đăng ký tại đơn vị nhà nước để bảo vệ tốt nhất các quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong hôn nhân, đảm bảo hôn nhân tiến bộ, một vợ một chồng.
Chồng chết không có di chúc thì chia tài sản thế nào?
Chia tài sản chung của vợ chồng khi chồng mất:
Tài sản chung của vợ chồng là tài sản vợ và chồng có được trong thời kỳ hôn nhân, gồm có tài sản mà vợ chồng mua được; nhận chuyển nhượng; thu nhập do lao động, sản xuất kinh doanh; hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng; tài sản được tặng choc hung, thừa kế chung.
Điều này cũng có thể hiểu rằng quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau kết hôn được coi là tài sản chung. Trong tình huống của bạn có thể thấy khá rõ phần tài sản: miếng đất và một căn nhà mà bố mẹ bạn có là tài sản chung của vợ chồng.
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, những trường hợp chấm dứt quan hệ hôn nhân như ly hôn và một bên vợ hoặc chồng chết thì phần tài sản chung sẽ được chia đôi.
Đối với trường hợp chồng chết thì tài sản chung sẽ được chia đôi, trong đó một nửa tài sản sẽ thuộc quyền sử dụng, quyền sở hữu của vợ. Phần tài sản còn lại thuộc về quyền sử dụng, quyền sở hữu của chồng và phần này sẽ được chia thừa kế theo pháp luật Dân sự về Thừa kế.
Việc thừa kế được chia theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Quy định về chia thừa kế khi người mất không để lại di chúc:
Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 thì khi người có tài sản mất không để lại di chúc thì chia di sản thừa kế sẽ chia theo pháp luật. Chia thừa kế theo pháp luật là chia phần di sản thừa kế của người chết theo hàng thừa kế, không theo chỉ định của người có di sản.
Hàng thừa kế theo pháp luật được ấn định gồm có ba hàng thừa kế, cụ thể:
Hàng thừa kế thứ nhất: vợ, chồng, cha, mẹ (gồm cả cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi) của người chết
Hàng thừa kế thứ hai: ông bà nội ngoại; anh, chị, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông bà nội ngoại
Hàng thừa kế thứ ba: cụ nội; cụ ngoại; bác, chú, cậu, cô, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Di sản thừa kế sẽ chia theo thứ tự từ hàng thừa kế thứ nhất; nếu trong trường hợp hàng thừa kế thứ nhất không còn ai hưởng hoặc từ chối hưởng, không được hưởng, bị truất quyền hưởng di sản thừa kế thì mới xét đến hàng thừa kế thứ hai.
Đối chiếu với tình huống của bạn di sản thừa kế của bố để lại sẽ được chia theo pháp luật như sau:
Tài sản riêng bố bạn có trước hôn nhân và một nửa tài sản chung của bố mẹ bạn được chia cho những người ở hàng thừa kế thứ nhất gồm: bố; mẹ (ông bà nội của bạn); mẹ bạn; bạn; và hai người con còn lại ( tổng cộng chia thừa kế thành 6 phần bằng nhau).
Như bạn trao đổi, trong gia đình còn có những người là anh chị của bố bạn. Tuy nhiên trong trường hợp này, những đối tượng là anh, chị của người chết thuộc hàng thừa kế thứ hai; mà như phân tích ở trên thì hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế khi hàng thừa kế thứ nhất không còn ai hưởng hoặc từ chối hưởng, không được hưởng, bị truất quyền hưởng di sản thừa kế. Vì vậy những người anh chị của bố bạn sẽ không được hưởng thừa kế.
Vợ chồng không đăng ký ở với nhau trước 1968 có được thừa kế không?
Vì pháp luật hiện hành chỉ công nhận vợ chồng hợp pháp khi họ có đăng ký kết hôn nên vợ chồng không đăng ký ở với nhau trước 1968 thì không được thừa kế.
Liên hệ ngay
Trên đây là tư vấn của LVN Group về vấn đề “Vợ chồng không đăng ký ở với nhau trước 1968 có được thừa kế??” . Chúng tôi hy vọng rằng với câu trả lời trên bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống.
Mọi câu hỏi về thủ tục pháp lý có liên quan như: thành lập công ty, đăng ký lại khai sinh, mẫu hóa đơn điện tử, chi nhánh hạch toán phụ thuộc kê khai thuế, tìm hiểu về hợp thức hóa lãnh sự tại Việt Nam, xin hợp pháp hóa lãnh sự ở Hà Nội, dịch vụ công chứng tại nhà của chúng tôi… Quý khách vui lòng liên hệ LVN Group để được hỗ trợ, trả lời.
Để được tư vấn cũng như trả lời những câu hỏi của khách hàng trong và ngoài nước thông qua web Lvngroupx.vn, lsx.vn, web nước ngoài Lsxlawfirm,…
Hãy liên hệ: 1900.0191.
Mời bạn xem thêm:
- Nguyên tắc hôn nhân tự nguyện tiến bộ trong chế định kết hôn
- Chồng chết vợ có được hưởng thừa kế của bố mẹ?
- Vợ có được thừa kế tài sản riêng của chồng không?
Giải đáp có liên quan:
Trường hợp này là khai sinh cho con ngoài giá thú, nếu không xác định được người cha, thì phần ghi về người cha ghi trong sổ đăng ký khai sinh và giấy đăng ký khai sinh để trống. Nếu tại thời gian đăng ký khai sinh có người nhận con, thì Uỷ ban nhân dân cấp xã kết hợp việc nhận cha con và đăng ký khai sinh. Vì vậy, pháp luật không yêu cầu bắt buộc cha mẹ phải có đăng ký kết hôn thì mới được khai sinh cho con.
Có 2 phương thức mà bạn có thể lựa chọn để chia tài sản chung mà không có đăng ký kết hôn:
Tự thỏa thuận với nhau sao cho hợp lý
Nhờ tòa án giải quyết
Tài sản giữa các bên được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết; có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con.