Hiện nay việc vay vốn không chỉ giới hạn bằng tiền mà còn bằng các loại tài sản khác nhau. Các loại tài sản có tính thanh khoản cao như vàng được ưu tiên sử dụng thay cho tiền. Việc vay vốn bằng vàng được quy định thế nào? Cho vay vằng có được tính lãi không? Chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu qua bài viết ngày hôm nay.
Văn bản hướng dẫn
- Bộ luật Dân sự năm 2015
Cho vay vàng có hợp pháp không?
Dựa trên khoản 1, Điều 105 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Điều 4 thuộc Nghị định Chính phủ về Nguyên tắc quản lý hoạt động kinh doanh vàng, có thể khẳng định vàng là một loại tài sản. Vì vàng là một loại tài sản có giá trị, do đó việc cho vay vàng sẽ được tiến hành như một giao dịch cho vay tài sản thông thường và hoàn toàn hợp pháp.
Trên thực tiễn, những giao dịch vay nợ bằng vàng hay cho vay vàng thông qua các hợp đồng cho vay vẫn thường diễn ra. Những hợp đồng cho vay vàng là hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu vàng tạm thời, có thể thỏa thuận đền bù hoặc không.
Cho vay vàng có được tính lãi
Hợp đồng vay vàng có thỏa thuận lãi
Căn cứ tính lãi
Trong trường hợp nợ quá hạn, thì khoản lãi đầu tiên mà bên vay phải trả là lãi trên nợ gốc trong hạn. Lãi này được tính theo hướng dẫn tại điểm a Khoản 5 Điều 466 BLDS 2015: “5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không trọn vẹn thì bên vay phải trả lãi như sau: a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả”. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tại thời gian trả nợ.
Lãi trên nợ gốc trong hạn chưa trả | = | Nợ gốc chưa trả | x | lãi suất theo thỏa thuận hoặc 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 của BLDS 2015 tại thời gian trả nợ (10%) | x | thời gian vay chưa trả lãi trên nợ gốc |
Khoản lãi thứ hai mà bên vi phạm phải trả cho bên vay là lãi trên nợ lãi chưa trả nếu chậm trả lãi trên nợ gốc trong hạn với mức lãi suất theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tại thời gian trả nợ tương ứng với thời gian chậm trả tiền lãi trên nợ gốc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Đây là tiền lãi phát sinh từ khoản tiền lãi đối với lãi trên nợ gốc trong hạn lần đầu tiên được ghi nhận. Mức lãi suất đối với khoản tiền lãi trên nợ gốc chậm trả được quy định này dẫn chiếu tới Khoản 2 Điều 468 với mức cố định là 10%/năm, được tính như sau:
Tiền lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả | = | nợ gốc quá hạn chưa trả | x | lãi suất do các bên thỏa thuận hoặc 150% lãi suất do các bên thỏa thuận | x | thời gian chậm trả nợ gốc |
Vì vậy, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác với quy định tại khoản này thì lãi suất đối với nợ gốc chậm trả sẽ gấp rưỡi (bằng 150%) mức lãi suất cho vay mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng vay. Quy định này của xác định lãi chậm trả trên nợ gốc cao hơn lãi suất trong hạn như một điều kiện để thúc đẩy người vay trả nợ và bảo vệ quyền lợi của bên cho vay.
Thời điểm bắt đầu tính lãi
Đối với lãi trên nợ gốc trong hạn chưa trả, thời hạn tính lãi tính theo hạn do các bên thỏa thuận.
Đối với lãi trên nợ lãi chưa trả, thời gian bắt đầu tính lãi là từ thời gian chậm trả lãi trên nợ gốc. Ví dụ: Ngày 20/1/2020 A vay B 2 chỉ vàng, thời hạn vay 1 năm, các bên thỏa thuận cứ 3 tháng thì A phải thanh toán lãi cho B một lần. Tuy nhiên đến ngày 20/5/2020 A mới thanh toán tiền lãi cho B, vậy thời gian bắt đầu tính lãi trên nợ gốc trong hạn là từ ngày 21/4/2020.
Đối với lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả chưa trả, tính từ thời gian chậm trả tiền nợ gốc đến thời gian thanh toán xong khoản nợ. Ví dụ ngày 20/01/2020 A vay B 2 chỉ vàng xác định thời hạn vay đến ngày 20/01/2021. Tuy nhiên đến 20/8/2021 A mới thanh toán khoản nợ cho B thì thời gian bắt đầu tính lãi trên nợ gốc quá hạn là từ ngày 21/01/2021.
Thỏa thuận lãi suất vô hiệu trong trường hợp vượt quá quy định
Điểm a khoản 2 Điều 5 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP quy định lãi trên nợ gốc trong hạn chưa trả được tính theo lãi suất thỏa thuận nhưng không được vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Vì vậy các bên được phép thỏa thuận lãi suất tối đa là 20%/năm của khoản tiền vay, đối với lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn trong quy định thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực. Quy định này thể hiện sự tôn trọng của pháp luật đối với thỏa thuận của các bên về lãi suất cho vay, tuy nhiên cũng đặt sự thỏa thuận trong khuôn khổ của pháp luật để tránh các trường hợp cho vay nặng lãi.
Hợp đồng vay vàng không có thỏa thuận lãi
Căn cứ tính lãi
Đối với trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không trọn vẹn thì theo Khoản 4 Điều 466 BLDS 2015 quy định bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
Bên cạnh đó, Khoản 1 Điều 5 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP cũng quy định đối với hợp đồng vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không trọn vẹn thì theo yêu cầu của bên cho vay, Tòa án xác định bên vay phải trả tiền lãi trên nợ gốc quá hạn theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 trên số tiền chậm trả tại thời gian trả nợ tương ứng với thời gian chậm trả nợ gốc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
Tiền lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả | = | nợ gốc quá hạn chưa trả | x | lãi suất theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tại thời gian trả nợ (10%/năm) | x | thời gian chậm trả nợ gốc |
Thời điểm bắt đầu tính lãi
Tương tự với trường hợp hợp đồng vay có thỏa thuận lãi, thời gian tính lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bắt đầu từ ngày bên vay chậm trả nợ gốc. Ví dụ các bên thỏa thuận thời hạn thanh toán là ngày 15/5/2020 nhưng đến ngày 15/8/2020 bên vay mới thanh toán thì bên vay phải trả thêm cho bên cho vay một khoản lãi trên nợ gốc quá hạn tính từ ngày 16/5/2020.
Có thể vay vàng trả bằng tiền được không?
Theo điều 463 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định khi trả lại tài sản đã vay, bên vay có nghĩa vụ hoàn trả tài sản theo đúng những gì đã vay (cả về số lượng và chất lượng), đồng thời phải chi trả lãi nếu có thỏa thuận trong hợp đồng hoặc theo hướng dẫn khác của pháp luật. Vì vậy, nếu trong hợp đồng cho vay vàng không có quy định nào khác thì người vay vàng cần trả lại bằng vàng. Trên thực tiễn, nhiều hợp đồng cho vay vàng nhưng quy đổi giá trị vàng ra tiền mặt và yêu cầu bên vay trả lại số tiền đó khi đến hạn.
Tranh chấp về lãi suất khi cho vay vàng
Vàng là loại tài sản có nhiều biến động tùy vào thời gian giao dịch vàng, do đó việc cho vay vàng cần có những quy định rõ ràng để tránh xảy ra tranh chấp. Nếu có tranh chấp về lãi suất, nhà nước sẽ dựa vào quy định nào để xử lý?
Trước kia, khi có tranh chấp về lãi suất khi cho vay vàng, nhà nước sẽ xử lý dựa trên quyết định của thống đốc Ngân hàng Nhà nước về mức lãi tối đa là 7%/năm. Tuy nhiên, ở thời gian hiện tại quyết định này đã bị hủy bỏ, khiến cho việc xử lý tranh chấp về lãi suất khi cho vay vàng trở nên không thống nhất. Một số vụ tranh chấp được xử lý dựa trên quy định về lãi suất đối với khoản vay tiền mặt tại điều 468 Bộ luật Dân sự 2015, quy định mức lãi tối đa là 20%/năm của khoản tiền vay. Tuy nhiên cách tính này vẫn còn nhiều khúc mắc bởi nếu quy giá trị vàng thành tiền thì tính theo giá vàng tại thời gian vay, thời gian hết hạn hợp đồng vay hay tại thời gian có xảy ra tranh chấp.
Vì vậy, việc cho vay vàng có được tính lãi được không là phụ thuộc vào hợp đồng cho vay vàng. Để đảm bảo quyền lợi của mình, cả bên cho vay và bên vay đều cần thỏa thuận thật kỹ về lãi suất trong hợp đồng cho vay vàng.
Mời bạn xem thêm
- Nghĩa vụ trả nợ chấm dứt khi người vay chết có đúng không?
- Cách tính lãi suất cho vay nặng lãi nhanh, đơn giản
- Quy định cho vay không có tài sản bảo đảm
Liên hệ ngay
Trên đây là tư vấn của LVN Group về vấn đề ”Cho vay vàng có được tính lãi ”. Chúng tôi hy vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống.
Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến đăng ký bảo hộ nhãn hiệu và logo; Bảo hộ logo độc quyền; thành lập công ty; hợp pháp hóa lãnh sự; công văn tạm ngừng kinh doanh; xin giấy phép bay Flycam,dịch vụ công chứng tại nhà …. hãy liên hệ: 1900.0191.
Giải đáp có liên quan
Theo điều 463, Bộ luật Dân sự năm 2015, người vay tài sản có nghĩa vụ trả lãi khi có thỏa thuận song phương trong hợp đồng hoặc theo những quy định khác của pháp luật. Do đó khi lập hợp đồng cho vay vàng, các bên cần phải ghi rõ những nội dung như thời hạn trả, cách thức trả, trả tiền hay vàng và quy định lãi suất nếu có. Không có quy định nào cấm tính lãi suất khi cho vay vàng, do đó cho vay vàng tính lãi là điều hoàn toàn hợp pháp
Năm 1992, thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã công bố lãi suất tối đa khi cho vay vàng là 7%/năm và những tranh chấp về lãi suất cho vay vàng đều được xử lý dựa trên quyết định này. Tuy nhiên vào năm 2000, thống đốc đã hủy bỏ quyết định này, kể từ đó không có văn bản quy định khác liên quan trực tiếp đến mức lãi suất tối đa khi cho vay vàng và mức lãi này chỉ phụ thuộc vào thỏa thuận của người vay và người cho vay khi làm hợp đồng.
Trước kia, khi có tranh chấp về lãi suất khi cho vay vàng, nhà nước sẽ xử lý dựa trên quyết định của thống đốc Ngân hàng Nhà nước về mức lãi tối đa là 7%/năm. Tuy nhiên, ở thời gian hiện tại quyết định này đã bị hủy bỏ, khiến cho việc xử lý tranh chấp về lãi suất khi cho vay vàng trở nên không thống nhất. Một số vụ tranh chấp được xử lý dựa trên quy định về lãi suất đối với khoản vay tiền mặt tại điều 468 Bộ luật Dân sự 2015, quy định mức lãi tối đa là 20%/năm của khoản tiền vay. Tuy nhiên cách tính này vẫn còn nhiều khúc mắc bởi nếu quy giá trị vàng thành tiền thì tính theo giá vàng tại thời gian vay, thời gian hết hạn hợp đồng vay hay tại thời gian có xảy ra tranh chấp.
Tương tự với trường hợp hợp đồng vay có thỏa thuận lãi, thời gian tính lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bắt đầu từ ngày bên vay chậm trả nợ gốc. Ví dụ các bên thỏa thuận thời hạn thanh toán là ngày 15/5/2020 nhưng đến ngày 15/8/2020 bên vay mới thanh toán thì bên vay phải trả thêm cho bên cho vay một khoản lãi trên nợ gốc quá hạn tính từ ngày 16/5/2020.