Có thể nói rằng, nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự đóng vai trò rất quan trong trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Nguồn của chứng cứ không chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý mà còn có ý nghĩa trên thực tiễn, được xem là nơi để cung cấp những tình tiết, tài liệu quan trọng để có thể rút ra những chứng cứ quan trọng chứng minh sự thật khách quan của vụ án trong quá trình tố tụng dân sự. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, hãy cùng LVN Group tìm hiểu qua bài viết ” Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về nguồn chứng cứ” sau đây nhé.
Câu hỏi: Chào LVN Group, tôi vẫn chưa nắm rõ lắm về quy định của pháp luật tố tụng dân sự về nguồn chứng cứ. LVN Group có thể cung cấp cho tôi một vài thông tin về vấn đề này được không ạ?. Tôi xin cảm ơn.
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Để trả lời câu hỏi của mình, mời bạn cân nhắc bài viết sau đây của chúng tôi nhé.
Văn bản hướng dẫn
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
Khái niệm nguồn chứng cứ trong TTDS
Về khái niệm chứng cứ: theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì: Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và đơn vị, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.
Nguồn là nơi bắt đầu, nơi phát sinh ra hoặc nơi có thể cung cấp hay rút ra cái gì, điều gì. Do đó, nguồn chứng cứ được hiểu là nơi rút ra các chứng cứ. Nguồn chứng cứ bao gồm người, vật, tài liệu mang các thông tin về vụ việc dân sự . Vì vậy, nguồn chứng cứ có hai loại chủ yếu là người, vật và tài liệu. Từ các nguồn chứng cứ, các chủ thể có thể rút ra các chứng cứ cần thiết để sử dụng vào việc tìm ra sự thật vụ án và đưa ra quyết định đúng đắn để giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ có thể thu thập nguồn chứng cứ, từ đó rút ra chứng cứ.
Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về nguồn chứng cứ
Nguồn chứng cứ được quy định tại Điều 94 BLTTDS năm 2015. Theo các quy định này thì nguồn chứng cứ bao gồm: các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử; các vật chứng; lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng; kết luận giám định; biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài săn; văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lí do người có chức năng lập; văn bản công chứng, chứng thực và các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử
* Tài liệu đọc được có nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chỉnh hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do đơn vị, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Bản chính có thể là bản gốc hoặc bản được dùng làm cơ sở lập ra các bản sao.
* Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cử nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ từ thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó. Các tài liệu này có thể là băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, phim, ảnh,… Nếu đương sự không xuất trình các văn bản nêu trên, thì tài liệu nghe được, nhìn được mà đương sự giao nộp không được coi là chứng cứ.
* Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới cách thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các cách thức tương tự khác theo hướng dẫn của pháp luật về giao dịch điện tử.
Vật chứng
Dựa trên khoản 2 điều 94 BLTTDS năm 2015 quy định đối với loại nguồn chứng cứ là vật chứng: vật chứng được pháp luật quy định là nguồn chứng cứ vì tồn tại trong chính bản thân nó là chứng cứ của vụ án, nó chỉ chứa đựng chứng cứ chứ nó không phải là chứng cứ.
– Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự; nếu không phải là hiện vật gốc hoặc không liên quan đến vụ việc thì không phải là chứng cứ trong vụ việc dân sự đó.
Vật chứng trước tiên phải tồn tại ở dạng vật chất, chứa đựng thông tin, dấu vết liên quan đến vụ việc dân sự. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự và phản ánh được những sự kiện khách quan của vụ việc dân sự.
Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng
Lời khai của đương sự , lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 95 BLTTDS năm 2015, hoặc khai bằng lời tại phiên toà.
Việc lấy lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng phải tuân theo các quy định tại Điều 98 và Điều 99 BLTTDS năm 2015.
Kết luận giám định
Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đỏ được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định;
Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo hướng dẫn của Luật này.
Kết luận giám định là nhận xét, đánh giá bằng văn bản của người giám định tư pháp về đối tượng giám định theo nội dung trưng cầu, yêu cầu giám định.
Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thăm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ với sự có mặt của uỷ quyền Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định và phải báo trước việc xem xét, thẩm định tại chỗ để đương sự biết và chứng kiến việc xem xét, thẩm định đó.
Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải được ghi thành biên bản. Biên bản phải ghi rõ kết quả xem xét, thẩm định, mô tả rõ hiện trường, có chữ ký của người xem xét, thẩm định và chữ ký hoặc điểm chỉ của đương sự nếu họ có mặt, của uỷ quyền Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị, tổ chức nơi có đối tượng được xem xét, thẩm định…..
Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.
Kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản được coi là chúng cứ nếu việc định giá, thẩm định giá được trên hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. Đương sự có quyền cung cấp giá tài sản đang tranh chấp; thỏa thuận về giá tài sản đang tranh chấp. Hoặc các đương sự có quyền thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản để thực hiện việc thẩm định giá tài sản và cung cấp kết quả thẩm định giá cho Tòa án. Việc định giá phải được lập biên bản, trong đó ghi rõ ý kiến của từng thành viên, đương sự nếu họ tham dự.
Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.
Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc lập văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định
Về bản chất, văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có năng lực lập cũng chỉ là các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được. Điển hình cho loại nguồn chứng cứ này chính là vi bằng do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được sử dụng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác.
Văn bản công chứng, chứng thực.
Văn bản công chứng, chứng thực được coi là chứng cứ nếu việc công chứng, chứng thực được thực hiện theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
Hiện nay, phần lớn thủ tục, hồ sơ thực hiện các giao dịch dân sự đều sử dụng văn bản công chứng của tổ chức, cá nhân có thẩm quyền theo hướng dẫn của pháp luật. Các văn bản công chứng khi thực hiện đúng thủ tục theo luật Công chứng sẽ có giá trị xác thực, giá trị pháp lý và độ tin cậy hơn các loại giấy tờ không có chứng nhận xác thực hoặc chỉ trình bày bằng miệng.
Các nguồn khác mà pháp luật quy định
Các nguồn khác mà pháp luật có quy định được xác định là chứng cứ theo điều kiện thủ tục mà pháp luật quy định.
Các nguồn khác đó có thể là các văn bản hợp pháp có chứa nội dung liên quan đến vụ việc mà cá nhân, cơ qan, tổ chức cung cấp cho cơ qua tiến hành tố tụng như giấy khai sinh, báo cáo của đơn vị…
Liên hệ ngay
Trên đây là tư vấn của LVN Group về vấn đề “Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về nguồn chứng cứ“. Chúng tôi hy vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống.
Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến đăng ký bảo hộ nhãn hiệu; Bảo hộ logo độc quyền; thành lập công ty; hợp pháp hóa lãnh sự; đăng ký hộ kinh doanh; xác nhận tình trạng hôn nhân; tra cứu thông tin quy hoạch; Quy định tạm ngừng kinh doanh; dịch vụ thám tử; đăng ký mã số thuế cá nhân; tuyên bố giải thể công ty; tạm ngưng kinh doanh hộ cá thể; xin giấy phép bay Flycam…. của LVN Group, hãy liên hệ: 1900.0191.
Mời bạn xem thêm:
- Hành vi dùng vũ lực trong cướp tài sản
- Vi phạm bản quyền trong xuất bản
- Giá trị pháp lý của công chứng và chứng thực là gì?
- Quy định hồ sơ tuyển dụng viên chức thế nào?
Giải đáp có liên quan
– Chứng cứ thường được rút ra từ các nguồn chứng cứ. Theo Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì nguồn chứng cứ gồm: các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; các vật chứng; lời khai của đương sự; lời khai của người làm chứng; kết luận giám định; biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; tập cửa hàng; kết quả định giá tài sản thẩm định giá tài sản; và các nguồn chứng cứ khác mà pháp luật quy định.
– Nguồn chứng cứ là nơi chứa đựng chứng cứ. Toà án chỉ có thể thu thập các nguồn chứng cứ, từ đó rút ra các chứng cứ. Bất kỳ loại chứng cứ nào cũng phải tồn tại trong một nguồn chứng cứ nhất định, nhưng không có nghĩa là khi thu thập một nguồn chứng cứ nào đó thì nhất thiết trong đó sẽ chứa đựng chứng cứ. Do đó, không được đồng nhất nguồn chứng cứ với chứng cứ, vì như thế sẽ phạm sai lầm tròng đánh giá, sử dụng.
– Mặt khác, không phải bất kỳ một tài liệu nào cũng được coi là nguồn của chứng cứ, mà chỉ các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được bằng mắt thường, hoặc bằng các phương tiện hiện đại mới được coi là nguồn của chứng cứ, khi nó có liên quan đến vụ án.
Chứng cứ là cái có thật, theo một trình tự do luật định được tòa án dùng làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự. Song để mọi người có thể nhận thức được thì chúng phải được ghi lại, phản ánh lại; dưới những cách thức cụ thể như bản hợp đồng, bản di chúc, băng ghi âm, ghi hình,…
Hiện nay, định nghĩa về chứng cứ cũng được quy định tại điều 93 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 . “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật; được đương sự và đơn vị, tổ chức, cá nhân khác giao nộp; xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng; hoặc do tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định; và được tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án; cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp”
Theo quy định tại Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định:
Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
– Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
– Vật chứng.
– Lời khai của đương sự.
– Lời khai của người làm chứng.
– Kết luận giám định.
– Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
– Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.
– Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.
– Văn bản công chứng, chứng thực.
– Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
Vì vậy nguồn chứng cứ được chia ra thành người, vật, tài liệu mang các thông tin về vụ việc dân sự. Việc phân biệt các nguồn chứng cứ có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định giá trị chứng minh của mỗi loại chứng cứ.