Vậy trong trường hợp này việc thi hành bản án phải được thực thi như thế nào. Vì theo tôi biết thì bản án đã có hiệu lực pháp luật phải được mọi tổ chức, cá nhân nghiêm chỉnh chấp hành.

Trân trọng cảm ơn!

Người hỏi: N.V.H.L

>> Hiệu lực thi hành bản án phúc thẩm, gọi: 1900.0191

 

Trả lời:

Bởi vì vấn đề bạn nêu ra không nói rõ thi hành bản án dân sự hay hình sự, tuy nhiên bạn có nhắc đến “bên thắng kiện và bên thua kiện” nên chúng tôi xin mặc định đây là một vụ án trong lĩnh vực dân sự.

 

1. Cơ sở pháp lý xác định hiệu lực bản án dân sự phúc thẩm

Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

– Luật Thi hành án dân sự 2008.

– Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014;

 

2. Khái niệm bản án

Thuật ngữ “bản án” được sử dụng lần đầu tiên tại Sắc lệnh thiết lập các toà án quân sự ngày 13.9.1945. Tuy nhiên, đến ngày 3.3.1969 Toà án nhân dân tối cao mới ban hành Thông tư số 1-UB hướng dẫn về cơ cấu bản án và cách viết bản án.

Bản án đánh dấu sự kết thúc toàn bộ quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cho nên nội dung của nó phải phản ánh những kết quả của phiên tòa và ý kiến phân tích, đánh giá của hội đồng xét xử. Thẩm phán chủ toạ phiên toà có nhiệm vụ viết bản án. Ở một số nước, thuật ngữ bản án chỉ dùng trong trường hợp xét xử vụ án hình sự, còn trong việc giải quyết vụ kiện dân sự thì văn bản ghi nhận quyết định của toà án tuyên xử gọi là quyết định của toà án. Ở Việt Nam, trong lĩnh vực hình sự cũng như dân sự đều dùng thuật ngữ chung là bản án. Bản án trong lĩnh vực hình sự gọi là bản án hình sự. Bản án trong lĩnh vực dân sự gọi là bản án dân sự.

 

3. Đặc điểm của bản án

+ Bản án là loại văn bản đặc trưng riêng và quan trọng nhất thể hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án. Chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền ban hành văn bản này theo trình tự tố tụng chặt chẽ được quy định trong pháp luật tố tụng.

+ Bản án là văn bản chính thức của Nhà nước trong quan hệ với cá nhân, cơ quan và tổ chức.

+ Bản án là một trong các văn bản tố tụng tư pháp với hình thức và bố cục được lập theo mẫu thống nhất theo quy định của các luật tố tụng và nghị quyết của Hội đồng Thẩm pháp Tòa án nhân dân Tối cao.

+ Bản án một mặt vừa phải thể hiện các chứng cứ, tình tiết của vụ án và ý kiến của những người tham gia tố tụng, mặt khác cũng phải thể hiện quan điểm, kết luận của Tòa án về nội dung vụ án, về pháp luật áp dụng, đường lối xử lí, quyết định của Tòa án đối với các vấn đề cần giải quyết trong vụ án.

+ Bản án của Tòa án khi có hiệu lực pháp luật có giá trị thi hành, quyết định được tuyến trong bản án có tính chất mệnh lệnh của Nhà nước mà các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan buộc phải quân theo

 

4. Phân loại bản án

– Căn cứ theo hiệu lực pháp luật

* Bản án đã có hiệu lực pháp luật:

+ Bản án nhất định bắt buộc phải tôn trọng, phải thi hành gồm: án sơ thẩm đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không bị kháng cáo, kháng nghị; án sơ thẩm đồng thời là án chung thẩm, án phúc thẩm. Các bản án và quyết định của tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân; những người và đơn vị hữu quan nghiêm chỉnh chấp hành. Chỉ có thể sửa đổi hoặc hủy bỏ bản án đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm hay tái thẩm.

* Bản án chưa có hiệu lực pháp luật

+ Bản án sơ thẩm chưa hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị hoặc bị kháng cáo, kháng nghị nhưng chưa xét xử phúc thẩm. Bản án chưa có hiệu lực pháp luật thì không được đem ra thi hành.

– Căn cứ theo lĩnh vực pháp luật:

* Bản án hình sự

+ Là bản án xét xử trong vụ án hình sự. Tòa án ra bản án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bản án phải có chữ ký của tất cả thành viên Hội đồng xét xử. Bản án hình sự gồm: Bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm

* Bản án dân sự:

– Là bản án trong vụ việc dân sự. Tòa án ra bản án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

– Bản án gồm có phần mở đầu, phần nội dung vụ án và nhận định và phần quyết định của Tòa án, cụ thể như sau:

+ Trong phần mở đầu phải ghi rõ tên Tòa án xét xử sơ thẩm; số và ngày thụ lý vụ án; số bản án và ngày tuyên án; họ, tên của các thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, Kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch; tên, địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện; người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; đối tượng tranh chấp; số, ngày, tháng, năm của quyết định đưa vụ án ra xét xử; xét xử công khai hoặc xét xử kín; thời gian và địa điểm xét xử;

+ Trong phần nội dung vụ án và nhận định của Tòa án phải ghi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu khởi kiện của cơ quan, tổ chức, cá nhân; yêu cầu phản tố, đề nghị của bị đơn; yêu cầu độc lập, đề nghị của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Tòa án phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa để phân tích, đánh giá, nhận định đầy đủ, khách quan về các tình tiết của vụ án, những căn cứ pháp luật, nếu vụ án thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này thì còn phải căn cứ vào tập quán, tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ hoặc lẽ công bằng, để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu, đề nghị của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và giải quyết các vấn đề khác có liên quan;

+ Trong phần quyết định phải ghi rõ các căn cứ pháp luật, quyết định của Hội đồng xét xử về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án, về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo đối với bản án; trường hợp có quyết định phải thi hành ngay thì phải ghi rõ quyết định đó.

* Bản án hành chính: Là bản án trong vụ viêc hành chính. Tòa án ra bản án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Bản án gồm có phần mở đầu, phần nội dung vụ án và nhận định và phần quyết định của Tòa án, cụ thể như sau:

+ Trong phần mở đầu phải ghi rõ tên Tòa án xét xử sơ thẩm; số và ngày thụ lý vụ án; số bản án và ngày tuyên án; họ, tên của thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, Kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch; tên, địa chỉ của người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; cơ quan, tổ chức khởi kiện; người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; đối tượng khởi kiện; số, ngày, tháng, năm của quyết định đưa vụ án ra xét xử; xét xử công khai hoặc xét xử kín; thời gian và địa điểm xét xử;

+ Trong phần nội dung vụ án và nhận định của Tòa án phải ghi yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện, khởi kiện của cơ quan, tổ chức; đề nghị, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng, các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa để phân tích, đánh giá, nhận định đầy đủ, khách quan về các tình tiết của vụ án, những căn cứ pháp luật, án lệ (nếu có) mà Tòa án áp dụng để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu, đề nghị của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và giải quyết các vấn đề khác có liên quan;

+ Trong phần quyết định phải ghi rõ các căn cứ pháp luật, quyết định của Hội đồng xét xử về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án, về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo đối với bản án; trường hợp có quyết định phải thi hành ngay thì phải ghi rõ quyết định đó.

* Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài

Là bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Toà án nước ngoài và bản án, quyết định khác của Toà án nước ngoài mà theo pháp luật của Việt Nam được coi là bản án, quyết định dân sự.

 

5. Quy định về thi hành bản án dân sự phúc thẩm

Trường hợp thứ nhất, nếu bên được thi hành án đã gửi đơn yêu cầu cơ quan Thi hành án tổ chức thi hành theo đúng quy định tại luật Thi hành án dân sự:

Theo khoản 6 điều 279 Bộ luật Tố tụng dân sự thì bản án phúc thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án, đây cũng là bản án, quyết định sẽ được thi hành án theo điểm c khoản 1 điều 2 của luật Thi hành án Dân sự.

Đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, thì quyền yêu cầu xem xét lại chỉ thuộc về cơ quan có thẩm quyền và kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; còn các đương sự như bên thắng kiện hay bên thua kiện chỉ có thể đưa đơn đề nghị các cơ quan này xem xét để làm đơn kháng nghị. Như vậy, đối với trường hợp mà bạn cung cấp thì người thua kiện đang thực hiện quyền làm đơn đề nghị như đã nêu, điều này không vi phạm pháp luật về dân sự nhưng chủ thể thực sự có quyền đệ đơn kháng nghị đối với bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật sẽ do chủ thể quy định tại điều 285 và 307 của bộ luật Tố tụng dân sự chứ không phải bên thua kiện.

Việc bên thua kiện lấy lý do đã có văn bản đề nghị kháng nghị, chờ hết thời hạn kháng nghị rồi mới thi hành án là không có căn cứ. Bởi việc gửi đơn đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét là một chuyện nhưng đơn đó có được cấp có thẩm quyền chấp nhận và quyết định ra đơn kháng nghị không lại là một chuyên khác.

Theo luật Thi hành án dân sự thì tại khoản 1 điều 49 có quy định: “Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thông báo về việc tạm đình chỉ thi hành án khi nhận được quyết định tạm đình chỉ thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.”. Tức là theo quy định này thì việc thi hành án sẽ bị tạm đình chỉ nếu có quyết định tạm đình chỉ thi hành án khi có đơn kháng nghị của cơ quan có thẩm quyền còn khi chưa có đơn kháng nghị dẫn đến chưa có quyết định tạm đình chỉ thi hành án thì công việc thi hành án sẽ vẫn được tiến hành như bình thường theo luật Thi hành án dân sự.

Vì người thua kiện mới chỉ có văn bản đề nghị kháng nghị chứ chưa được cơ quan có thẩm quyền xem xét xong nên trong quá trình cơ quan có thẩm quyền xem xét và quyết định kháng nghị cuối cùng là ra quyết định hoãn thi hành án thì việc thi hành án vẫn được diễn ra như bình thường.

Thế nên, bên thắng kiện vẫn có quyền yêu cầu bên thua kiện thi hành án không khoảng thời gian nêu trên, hoàn toàn bác bỏ lí do của bên thua kiện!

Ngoài ra, cũng theo luật Thi hành án thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án trong thời hạn là 5 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực; người phải thi hành án có thời hạn 15 ngày tự nguyện thi hành án kể từ ngày nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án; sau thời gian 15 ngày này mà người phải thi hành án không thực hiện nghĩa vụ của mình thì cơ quan Thi hành án sẽ ra lệnh cưỡng chế thi hành (căn cứ lần lượt dựa vào điều 30, 45 và 46 của luật Thi hành án dân sự).

 

Trường hợp thứ 2, bên được thi hành án chưa gửi đơn yêu cầu thi hành án cho cơ quan Thi hành án:

Trong trường hợp này, chúng tôi sẽ hiểu “bên thắng kiện yêu cầu thi hành án” chỉ là nói với bên thua kiện chứ chưa đề nghị với cơ quan Thi hành án. Như vậy, việc bên thua kiện lấy lý do đã có văn bản đề nghị kháng nghị, chờ hết thời hạn kháng nghị cũng đơn thuần giống như một sự thỏa thuận giữa 2 bên, không vi phạm pháp luật. Nếu bên được thi hành đồng ý thì thỏa thuận thành công, bên thua kiện sẽ không phải thực hiện cho đến hết thời hạn kháng nghị, còn nếu bên được thi hành không đồng ý thì có thể làm đơn đề nghị cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành và các bước tiếp theo sẽ giống như trường hợp 1.