Giải quyết tố cáo trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Tòa án nhân dân - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Giải quyết tố cáo trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Tòa án nhân dân

Giải quyết tố cáo trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Tòa án nhân dân

Các quy định về giải quyết tố cáo trong đó Thẩm phán ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo hướng dẫn của Bộ luật Dân sự và thủ tục hành chính tại Tòa án hiện nay còn thiếu sót. Thực tiễn thụ lý, giải quyết tố cáo của tòa án các cấp cho thấy còn nhiều quan điểm khác nhau, đôi khi trái ngược nhau gây tâm lý hoài nghi của những người thực hiện quyền tố cáo, tôi xin nêu một quan điểm của họ. về vấn đề này qua thực tiễn giải quyết tố cáo tại Tòa án nhân dân.

1. Quy phạm pháp luật

Tố cáo là việc cá nhân báo cáo theo thủ tục quy định tại Luật này với đơn vị, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi trái pháp luật của đơn vị, tổ chức, cá nhân gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại đến lợi ích của mình. nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của đơn vị, tổ chức, cá nhân, bao gồm: tố giác hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; Tố giác hành vi vi phạm pháp luật quản lý nhà nước trên các lĩnh vực (Khoản 1 Mục 2 Luật tố giác tội phạm 2018).

Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Luật tố tụng hành chính 2015 cũng quy định về trình tự, thủ tục của quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quá trình tố tụng khi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có hành vi vi phạm pháp luật, gây tổn hại hoặc đe dọa lợi ích của người bị tổn hại. nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đơn vị, tổ chức. Tại Chương II: Những nguyên tắc cơ bản (Điều 25 BLDS 2015) và Chương I: Những quy định chung (Điều 28 BLDS 2015) về cơ bản giống nhau, đều quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại. khiếu nại, cá nhân có quyền tố cáo hành vi, quyết định trái pháp luật của đơn vị, người tiến hành tố tụng hoặc của bất kỳ đơn vị, tổ chức, cá nhân nào.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, điều tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời, đúng pháp luật; thông báo bằng văn bản về kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo”.
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định tại Chương XLI: Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự, gồm: 17 điều (Từ điều 499 đến điều 515), trong đó có 8 điều về tố cáo (từ điều 509 đến điều 514). Về thủ tục hành chính năm 2015 quy định tại Chương XXI: Khiếu nại, tố cáo trong thủ tục hành chính, gồm: 17 điều (Từ Điều 327 đến Điều 343), quy định về tố cáo gồm 07 điều (Từ Điều 337 đến Điều 343).
Theo quy định tại Điều 590 Bộ luật dân sự 2015 và Điều 337 Bộ luật dân sự 2015 thì cá nhân có quyền tố cáo với đơn vị, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi trái pháp luật của người có thẩm quyền. hoặc đe dọa xâm hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đơn vị, tổ chức. Để đảm bảo an toàn cho người tố cáo tránh lạm dụng việc tố cáo sai sự thật, vu khống người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng dân sự đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi người dân thực hiện quyền tố cáo, pháp luật đã quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của người tố cáo. Theo quy định tại Điều 510 BLTTDS năm 2015 và Điều 338 LTTHC năm 2015, người tố cáo có các quyền và nghĩa vụ sau: Gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với đơn vị, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền; Yêu cầu giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích của mình; Yêu cầu được thông báo kết quả giải quyết tố cáo; Yêu cầu đơn vị, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe dọa, trù dập, trả thù và có nghĩa vụ: Trình bày trung thực về nội dung tố cáo; Nêu rõ họ, tên, địa chỉ của mình; Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc tố cáo sai sự thật.
Đối với người bị tố cáo trong tố tụng dân sự và tố tụng hành chính, đây là người được Nhà nước giao trách nhiệm tiến hành các hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính. Để tránh làm oan người bị tố cáo, đồng thời bảo đảm dân chủ, công khai trong việc giải quyết tố cáo, tại Điều 511 BLTTDS năm 2015 và Điều 339 LTTHC năm 2015 đã quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của người bị tố cáo sau: Được thông báo về nội dung tố cáo; Đưa ra bằng chứng để chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự thật; Được khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, được phục hồi danh dự, được bồi thường tổn hại do việc tố cáo không đúng gây ra; Yêu cầu đơn vị, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người tố cáo sai sự thật; Giải trình về hành vi bị tố cáo; gửi tới thông tin, tài liệu liên quan khi đơn vị, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu; Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định xử lí của đơn vị, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền; Bồi thường tổn hại, hoàn trả hoặc khắc phục hậu quả do hành vi tố tụng dân sự trái pháp luật của mình gây ra theo hướng dẫn của pháp luật.
Thẩm quyền giải quyết tố cáo được quy định tại Điều 512 BLTTDS năm 2015 và Điều 340 LTTHC năm 2015: Nguyên tắc tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thuộc đơn vị có thẩm quyền nào thì người đứng đầu đơn vị đó có trách nhiệm giải quyết. Trong trường hợp người bị tố cáo là Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát thì Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có trách nhiệm giải quyết.
Về thời hạn giải quyết tố cáo trong tố tụng dân sự và tố tụng hành chính là khác nhau, theo đó: Trong tố tụng dân sự thì thời hạn giải quyết tố cáo quy định bằng tháng, cụ thể: Không quá 2 tháng kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết tổ cáo có thể dài hơn nhưng không quá 3 tháng. Riêng đối với tố tụng hành chính thì thời hạn giải quyết tố cáo được quy định bằng ngày; cụ thể: 60 ngày kể từ ngày nhận được tố cáo; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết tố cáo có thể dài hơn, nhưng không quá 90 ngày.
Thủ tục giải quyết tố cáo theo hướng dẫn tại Điều 513 BLTTDS năm 2015 và Điều 341 LTTHC năm 2015, cơ bản là giống nhau, theo đó: Thủ tục giải quyết tố cáo được thực hiện theo hướng dẫn của pháp luật về tố cáo.
Trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo (Điều 514 BLTTDS năm 2015, Điều 342 LTTHC năm 2015) quy định: Để bảo đảm việc giải quyết nhanh chóng, có hiệu quả khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính đồng thời đề cao trách nhiệm của đơn vị, tổ chức, cá nhân trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, pháp luật tố tụng dân sự và tố tụng hành chính quy định trách nhiệm của đơn vị, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Do đó, trong khuôn khổ nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các đơn vị, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời, đúng pháp luật; xử lý nghiêm minh những người vi phạm pháp luật; áp dụng các biện pháp cần thiết để ngăn ngừa tổn hại có thể xảy ra và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. Trong trường hợp người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo không giải quyết hoặc thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết hoặc giải quyết trái pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây tổn hại thì phải bồi thường theo hướng dẫn của pháp luật.
Mục 14 Luật tố cáo 2018 quy định thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi trái pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong Tòa án nhân dân:

“1. Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tố giác vi phạm pháp luật trong việc thi hành công vụ của cán bộ do mình chỉ đạo trực tiếp.
2. Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh có các quyền hạn sau đây:

a) Giải quyết tố giác vi phạm pháp luật trong việc thi hành công vụ của Chánh án Toà án tối cao, Phó Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện và cán bộ, công chức khác do mình chỉ đạo trực tiếp;

b) Giải quyết khiếu nại hành vi vi phạm pháp luật trong việc thi hành công vụ của Tòa án nhân dân cấp huyện.
3. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao có thẩm quyền xét xử tố giác hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức do mình chỉ đạo trực tiếp trong việc thi hành công vụ.
4. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có các quyền sau đây:

a) Xét xử tố giác vi phạm pháp luật trong việc thi hành công vụ của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao; các Chánh án, Phó Chánh án TAND cấp tỉnh; việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của công chức, viên chức khác dưới sự chỉ đạo trực tiếp của mình;

b) Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của đơn vị, tổ chức do mình chỉ đạo trực tiếp của Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Điều 21 Luật Tố cáo năm 2018, quy định: “Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà không phải là cán bộ, công chức, viên chức :

Người đứng đầu đơn vị, tổ chức, đơn vị quản lý trực tiếp người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà không phải là cán bộ, công chức, viên chức có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người đó trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ.”

Tại khoản 1 Điều 22 của Thông tư số 01/2020/TT-TANDTC ngày 28/6/2020 của Chánh án TANDTC quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong TAND, nêu về thẩm quyền giải quyết tố cáo:

“1. Chánh án Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm của các đơn vị, đơn vị thuộc Tòa án nhân dân; hành vi vi phạm của công chức hoặc người không phải là công chức do mình trực tiếp quản lý được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo hướng dẫn tại Điều 14 và Điều 21 của Luật Tố cáo.
2. ………………..”

Đối với Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại tố cáo trong tố tụng dân và tố tụng hành chính về cơ bản giống nhau, tại Điều 515 BLTTDS năm 2015 và Điều 343 LTTHC năm 2015 đều quy định: Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính theo hướng dẫn của pháp luật. Viện kiểm sát có quyền yêu cầu, kiến nghị đối với Tòa án cùng cấp và cấp dưới, đơn vị, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm để bảo đảm việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có căn cứ, đúng pháp luật. Quy định trên được hiểu là khi giải quyết vụ án dân sự, hành chính nếu có khiếu nại, tố cáo đối với người tiến hành tố tụng trong vụ án thì Viện trưởng VKS cùng cấp quyết định phân công Kiểm sát viên tham gia kiểm sát vụ án. việc tuân thủ pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo.

2. Những thiếu sót trong quy định

Mặc dù, Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Hành chính năm 2015; Đạo luật Người tố giác 2018 và Tài liệu Hướng dẫn Hệ thống Tư pháp bao gồm các quy định và hướng dẫn về việc chấp nhận và tố giác trong các vấn đề dân sự và hành chính, bao gồm cả việc giải quyết những người tố giác chống lại thẩm phán. là Phó Chánh án, Chánh án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (ADBPKCTT) hoặc Thẩm phán ra quyết định ADBPKCTT, có khiếu nại thì Chánh án ra quyết định giải quyết khiếu nại đối với khiếu nại của Thẩm phán . ra quyết định ADBPKCTT. Tuy nhiên, thực tiễn nhiều TAND địa phương còn lúng túng trong việc thụ lý, giải quyết khiếu nại đối với việc áp dụng BPKCTT của Thẩm phán là Phó Chánh án, Chánh án hoặc quyết định của Chánh án trong việc giải quyết khiếu nại của Tòa án nhân dân. thẩm phán ra quyết định ADBPKCTT, dưới đây là một vụ việc cụ thể.
Trong thời gian từ năm 2018 đến đầu năm 2019, ông B có vay của ông A số tiền là 2 tỷ 100 triệu đồng tương ứng với 4 hợp đồng vay. Do ông B không có tiền để trả nợ, nên vào ngày 10/4/2019 ông A khởi kiện yêu cầu TAND thành phố P, tỉnh G giải quyết buộc ông B và bà T ( Bà T với ông B trước đây là vợ chồng) phải trả cho ông A cùng vợ là bà H số tiền gốc 2 tỷ 100 triệu đồng và tiền lãi với mức lãi 10%/năm phát sinh từ vay cho đến ngày xét xử, giải quyết vụ án, đồng thời yêu cầu tuyên bố “Văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung vợ chồng” lập ngày 19/3/2019 giữa ông B và bà T là giao dịch vô hiệu. Kèm theo đơn kiện ông A có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “Cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định” theo hướng dẫn tại Điều 127 BLTTDS, theo đó cấm bà T thực hiện các hành vi liên quan đến việc giao dịch đối với tài sản là nhà và đất tọa lạc tại địa chỉ 33 đường Hoàng Văn, tổ 2, phường I, thành phố P, tỉnh G.
Cùng ngày 10/4/2019, TAND thành phố P, tỉnh G ra Quyết định áp dụng BPKCTT số 02/2019/QĐ-BPKCTT “Cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định” đối với nhà và đất của bà tại số nhà 33 Hoàng Văn, phường I, thành phố P, tỉnh G; nội dung cụ thể: “Cấm chị T thực hiện các hành vi liên quan đến việc giao dịch đối với tài sản là nhà và đất tọa lạc tại địa chỉ 33 Hoàng Văn, tổ 2, phường I, thành phố P, tỉnh G”.
Bà T đã khiếu nại Quyết định nêu trên, đến ngày 25/4/2019 Chánh án TAND thành phố P, tỉnh G đã căn cứ các Điều 111, 127, 133, 136, 140 và 141 của BLTTDS ra Quyết định số 02/QĐ-TA với nội dung: “Không chấp nhận khiếu nại của bà T đối với Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 02/2019/QĐ-BPKCTT ngày 10-4-2019 của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh G”.
Theo Quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 112/2019/QĐST-HNGĐ ngày 27/3/2019 của TAND thành phố P, tỉnh G thể hiện: Bà T với ông B đã thuận tình ly hôn và giải quyết con chung; đối với phần tài sản chung và nghĩa vụ chung: Các đương sự tự thỏa thuận, trong đó có tài sản là nhà và đất tọa lạc tại địa chỉ 33 Hoàng Văn, tổ 2, phường I, thành phố P, tỉnh G theo Giấy chứng nhận QSD đất số BĐ 297…. do UBND thành phố P cấp cho ông B, bà T đã được chỉnh lý trang 4 “Chuyển quyền sở hữu tài sản” mang tên một mình bà T vào ngày 26/3/2019, việc chỉnh lý này trước khi TAND thành phố P, tỉnh G ban hành Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 02/2019/QĐ-BPKCTT ngày 10/4/2019 là 15 ngày (Từ ngày 26/3/2019 đến ngày 10/4/2019).
Tại Thông báo về việc thụ lý vụ án số 105/TB-TLVA ngày 09/4/20219 của TAND thành phố P, tỉnh G thì Tòa án đã thụ lý vụ án dân sự về việc “Tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản và yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu”. Trong đó, xác định: Nguyên đơn là ông A, bị đơn là ông B và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà H (vợ ông A), bà T (Trước đây là vợ ông B); Các đương sự trong vụ án trên không thể hiện đang tranh chấp về tài sản. Tại đoạn 1 điểm 2.1 mục 2 của Phụ lục kèm theo Chỉ thị số 03/2019/CT-CA ngày 30 tháng 12 năm 2019 của Chánh án TANDTC thì đối với tài sản không có tranh chấp, Tòa án có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ nếu đương sự có yêu cầu và việc áp dụng này là có căn cứ.
Nếu trong trường hợp tài sản đang tranh chấp và việc Tòa án cấm bà T thực hiện các hành vi liên quan đến giao dịch nhà ở và đất, là cấm bà T “Chuyển dịch quyền về tài sản” thì Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp (Điều 121 BLTTDS) và phải buộc thực hiện biện pháp bảo đảm. (Khoản 2.5, Khoản 2 Phụ lục kèm theo Chỉ thị của Chánh án TANDTC số 03/2019/CT-CA ngày 30 tháng 12 năm 2019).
Mặt khác, Điều 117 Luật Nhà ở 2014 nêu rõ: Các loại giao dịch về nhà ở: “Giao dịch về nhà ở bao gồm các cách thức mua bán, cho thuê, thuê mua và chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại. , thừa kế, thế chấp, góp vốn, cho mượn, cho ở nhờ và ủy quyền quản lý chỗ ở. Quyết định của thẩm phán áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nói trên, bao gồm tất cả các cách thức giao dịch về nhà ở được quy định trong Luật Nhà ở 2014, là quá rộng, trong khi giá trị quyền sở hữu nhà đất “gấp mấy lần” so với yêu cầu trong “Đơn kiện”. Đơn kiến ​​nghị”. ” mà Tòa án thụ lý và quyết định. (Theo chứng thư giám định của đơn vị, tổ chức X thì giá trị tài sản nhà, đất mà Tòa án áp dụng BPKCTT có giá trị hơn 13 tỷ 200 triệu đồng).
Vì vậy, Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh G đang áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “Cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định” quy định tại Điều 127 BLTTDS ra Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 02/2019/QĐ -BPKCTT ngày 10/4/2019 là không phù hợp với quy định tại Chương VIII “Biện pháp khẩn cấp tạm thời” của BLTTDS.
Từ những nhận định trên, ngày 28/2/2020, Chánh án TAND tỉnh G, đã ban hành Kết luận số 95/KL – CA, với nội dung: “Bà T tố cáo ông Chánh án và bà Thẩm phán là đúng một phần; Căn cứ:

TAND thành phố P, tỉnh G đã căn cứ vào “Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của ông A” để ban hành Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 02/2019/QĐ-BPKCTT ngày 10-4-2019 là đúng trình tự, thẩm quyền ban hành theo hướng dẫn tại Điều 133 của BLTTDS.
Tuy nhiên, về nội dung TAND thành phố P đã căn cứ vào Điều 127 của BLTTDS để ban hành Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “Cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định” là không đúng quy định tại Chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của BLTTDS năm 2015. Bởi vì “Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 02/2019/QĐ-BPKCTT ngày 10/4/2019 là cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định theo hướng dẫn tại Điều 127 BLTTDS năm 2015, nhưng tại phần Quyết định lại ghi cấm bà B chuyển dịch quyền tài sản là không phù hợp với quy định tại Điều luật trên; hơn nữa, việc cấm chuyển dịch về tài sản, thì buộc ông A phải gửi tài sản bảo đảm theo hướng dẫn tại Điều 136 BLTTDS năm 2015.”

Sau khi nhận được Kết luận của TAND tỉnh G, ông A khiếu nại Kết luận nêu trên, hiện nay có ba quan điểm.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Việc TAND tỉnh G thụ lý và ban hành Kết luận giải quyết tố cáo là đúng quy định tại khoản 1, 2 Điều 512 BLTTDS và đúng tinh thần Điều 14 Luật Tố cáo và khoản 1 Điều 22 Thông tư số của Chánh án TANDTC.
Tại khoản 1, 2 Điều 512 BLTTDS quy định về thẩm quyền và thời hạn giải quyết tố cáo: “1. Việc tố cáo hành vi trái pháp luật của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thuộc đơn vị có thẩm quyền nào do người đứng đầu đơn vị này quyết định.
Trường hợp người bị tố cáo là Chánh án Toà án tối cao, Phó Chánh án Toà án, Viện trưởng, Phó Viện trưởng thì Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải quyết định việc trường hợp. . “.
Tại khoản 2 mục 14 Luật Tố cáo 2018 thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi trái pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong Tòa án nhân dân: Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện.
Khoản 1 Điều 22 Thông tư số 01/2020/TT-TANDTC ngày 28 tháng 6 năm 2020 của Chánh án Tòa án nhân dân quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết tố cáo: “1 . Chánh án Toà án nhân dân có thẩm quyền giải quyết tố cáo vi phạm của các đơn vị, đơn vị thuộc Toà án nhân dân; hành vi vi phạm của cán bộ, công chức, viên chức dưới sự chỉ đạo trực tiếp của mình và tham gia thực hiện chức trách, nhiệm vụ theo hướng dẫn tại Điều 14 và Điều 21 của Luật tố cáo”. Quan điểm thứ hai cho rằng Tòa án nhân dân tỉnh G không nên thụ lý giải quyết tố cáo vì thực chất trong trường hợp này là khiếu nại quyết định hòa giải, giải quyết tố cáo. đã được giải quyết đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhưng người khiếu nại không đồng ý mà đề nghị tố cáo người đã giải quyết khiếu nại Việc khiếu nại chỉ được thụ lý nếu người tố cáo gửi tới được thông tin, tài liệu, chứng cứ để xác định người khiếu nại đã có hành vi vi phạm. hành vi phạm pháp. Vì vậy, nếu người tố cáo không gửi tới thêm tài liệu, chứng cứ mới đáp ứng điều kiện thụ lý tố cáo thì không thụ lý và không ban hành kết luận giải quyết việc tố cáo. Trong trường hợp trên, Chánh án TAND tỉnh D sẽ ra kết luận giải quyết tố cáo của Chánh án TAND tỉnh G.
Vấn đề đặt ra là Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh D có thẩm quyền ra kết luận giải quyết tố cáo đối với Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh G được không?
Quan điểm thứ ba cho rằng: Trong trường hợp Tòa án nhân dân tỉnh G đã thụ lý, giải quyết thông tin và ban hành kết luận giải quyết thông tin, nếu xét thấy kết luận của Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh G Tỉnh G sai thì Chánh án TAND tỉnh G mới có quyền thụ lý giải quyết tố cáo. Chánh án Tòa án nhân dân D không có thẩm quyền thụ lý và ra kết luận giải quyết thông tin. Vì theo hướng dẫn tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều 14 Luật Tố cáo quy định về thẩm quyền giải quyết tố cáo thì Chánh án Toà án nhân dân có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện hành vi nhiệm vụ chính thức của họ bởi các quan chức dưới sự chỉ đạo trực tiếp của họ; Chánh án Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết tố giác vi phạm pháp luật trong việc thi hành công vụ của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân; các Chánh án, Phó Chánh án TAND cấp tỉnh. Điều này cũng phù hợp với khoản 1 Điều 22 Thông tư số 01/2020/TT-TANDTC ngày 28/6/2020 của Chánh án TANDTC “Quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Tòa án nhân dân” về thẩm quyền tố cáo.

3. Nguyên nhân và Kiến nghị

Các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng hình sự đều được quy định ở một chương riêng. Theo đó, tại Chương VIII của BLTTDS (Từ điều 111 đến điều 142), Chương V của Luật TTHC (Từ điều 66 đến điều 77). Để thực hiện BLTTDS thì Hội đồng Thẩm phán TANDTC cũng đã ban hành Nghị quyết số 02/2020/NQ-HĐTP ngày 24/9/2020 “Hướng dẫn áp dụng một số quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Bộ luật tố tụng dân sự”, Chỉ thị số 03/2019/CT-CA ngày 30/12/2019 của Chánh án TANDTC “Về việc nâng cao chất lượng áp dụng các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự”.
Tuy nhiên, trên thực tiễn thì vẫn còn nhiều nguyên nhân dẫn đến việc hiểu khác nhau, nên dẫn đến việc áp dụng pháp luật trong áp dụng BPKCTT tố tụng dân sự và tố tụng hành chính. Không ít vụ án Thẩm phán đã ban hành áp dụng BPKCTT sai điều luật, sai nội dung… dẫn đến đương sự khiếu nại đến Chánh án và Chánh án Tòa án đã ban hành quyết định giải quyết khiếu nại của đương sự về việc Thẩm phán ra Quyết định áp dụng BPKCTT; sau đó đương sự lại tiếp tục tố cáo đến Chánh án Tòa án cấp trên cho rằng Thẩm phán ra Quyết định áp dụng BPKCTT sai, Chánh án có hành vi bao che cho Thẩm phán nên ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại việc ADBPKCTT trái pháp luật, như ví dụ đã viện dẫn nêu trên.
Theo quan điểm cá nhân của chuyên gia, để giải quyết “Đơn tố cáo” của cá nhân, tổ chức khi bị áp dụng BPKCTT một cách kịp thời, nhằm giảm thiểu tối đa tổn hại xảy ra, gây bức xúc cho cá nhân, tổ chức khi Thẩm phán ban hành quyết định ADBPKCTT và sớm giải quyết các sai phạm của Thẩm phán, Chánh án (nếu có), nên chăng cần có quy định, hướng dẫn cụ thể: Sau khi nhận được “Đơn tố cáo” của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp…. Đối với việc Thẩm phán ra quyết định ADPKCTT và việc Chánh án ra quyết định xử lý aDPKCTT tạm thời trái pháp luật của Thẩm phán thì Chánh án Tòa án cấp trên phải thụ lý, giải quyết. Trong quá trình thụ lý giải quyết tố cáo sẽ xảy ra 2 trường hợp:

Nếu việc “tố giác” của các bên liên quan không đúng, chánh án tòa án cấp trên sẽ căn cứ vào điều 34 Luật Tố cáo 2018 “Đình chỉ giải quyết tố cáo”, căn cứ theo thẩm quyền quy định tại Điều 14 Luật Tố cáo Tố cáo , Điều 512 BLDS, Điều 340 LTTHC và Thông tư số 01/2020/TT-TANDTC ngày 28 tháng 6 năm 2020 của Chánh án TANDTC.
Nếu “thông tin” là đúng, Chánh án Tòa án cấp trên phải tiếp tục xử lý thông tin và đưa ra phán quyết về việc xử lý thông tin. TAND cấp tỉnh, Chánh án TAND cấp tỉnh giải quyết dứt điểm, đúng thẩm quyền quy định tại Điều 14 Luật Tố cáo, Điều 512 Bộ luật Dân sự, Điều 340 LTTHC và Thông tư số 01/2020/TT -TANDTC ngày 28 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân Việt Nam. của Tòa án nhân dân.
Đây là cách duy nhất đảm bảo công bằng, dân chủ, khách quan và đúng tinh thần quy định của Bộ luật Dân sự, Luật hành chính và Hiến pháp. Mặc dù Chánh án TANDTC đã có Văn bản số 50/TANDTC-PC ngày 20/4/2021 “Về việc giải quyết tố cáo” cũng như một số văn bản trả lời hướng dẫn một số vụ việc cụ thể mà Tòa án nhân dân địa phương phải xin ý kiến, nhưng vấn đề xử lý, tố cáo còn nhiều ý kiến ​​trái chiều. Không nên hiểu rằng trong khi chờ tổn hại xảy ra thì Tòa án cấp trên (phúc thẩm) sẽ vào cuộc và giải quyết đơn yêu cầu khắc phục hậu quả của cấp dưới (sơ thẩm). Bởi nhiều vụ án hiện nay đang kéo dài, có thể hàng chục năm cấp sơ thẩm vẫn chưa giải quyết xong nhưng việc áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự rõ ràng là có căn cứ trái pháp luật sẽ gây tổn hại lớn cho cá nhân, tổ chức. Tổ chức. , công ty…. Vậy tổn hại thuộc về ai và chẳng lẽ các đương sự phải chờ đợi ngần ấy năm rồi mới “Khởi kiện dân sự” để yêu cầu đương sự yêu cầu áp dụng biện pháp phòng, chống tham nhũng hay đến đơn vị tài phán. quyết định xấu ADBPKCTT phải sửa chữa hư hỏng. Khi đó, nguyên đơn cũng như người ban hành và giải quyết khiếu nại đối với quyết định ADBPKCTT có thể đã qua đời, nghỉ hưu, chuyển công tác khác…

Với mong muốn thực tiễn thụ lý giải quyết tố cáo được thống nhất trong thi hành pháp luật, mong rằng Tòa án nhân dân phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân ban hành Thông tư hướng dẫn Chương XXI: “Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hành chính”. và Chương XLI: “Khiếu nại, tố cáo trong việc dân sự”.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com