Kính chào LVN Group, mấy hôm nay xóm tôi có cỗ lớn nên họ hàng xum tụ trọn vẹn, vì thế chúng tôi quyết định chơi xổ số lô tô ván 3-5 nghìn để giải trí. Tuy nhiên, chỉ một lúc thì cán bộ công an cùngo nhắc nhở không được tổ chức cờ bạc trái phép nếu không sẽ bắt lên phường cùng tịch thu tang vật. Vậy chơi xổ số lô tô có phải là cờ bạc không? Tội cờ bạc trái phép bị phạt bao nhiêu tiền? Xin được trả lời.
Để trả lời vấn đề trên mời quý bạn đọc cùng LVN Group cân nhắc bài viết dưới đây để biết thêm chi tiết.
Văn bản quy định
- Nghị định 144/2021/NĐ-CP
- Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
Tội đánh bạc là gì?
Đánh bạc là hành vi tham gia trò chơi được tổ chức dưới bất kỳ cách thức nào, được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị dựa cùngo kết quả chưa chi tiết của một sự kiện với một mục đích có thêm tiền bạc hoặc giá trị vật chất.
“Đánh bạc trái phép” là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ cách thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được đơn vị nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được đơn vị nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp.
Tội đánh bạc là hành vi tham gia trò chơi được tổ chức trái pháp luật (dưới bất kỳ cách thức nào), được thua bằng tiền hay hiện vật từ năm triệu đồng trở lên, hoặc dưới năm triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội tổ chức đánh bạc, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Do người có năng lực trách nhiệm hình sự cùng đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm đến trật tự, an toàn công cộng.
Chơi xổ số lô tô có phải là cờ bạc không?
Căn cứ theo Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định về hành vi đánh bạc trái phép như sau:
- Phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi mua các số lô, số đề.
- Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Đánh bạc trái phép bằng một trong các cách thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế, binh ấn độ 6 lá, binh xập xám 13 lá, tiến lên 13 lá, đá gà, tài xỉu hoặc các cách thức khác với mục đích được, thua bằng tiền, tài sản, hiện vật;
b) Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép;
c) Cá cược trái phép trong hoạt động thi đấu thể thao, vui chơi giải trí hoặc các hoạt động khác.
…
Bên cạnh đó, tại Điều 6 Nghị định này quy định về cách thức xử phạt bổ sung như sau:
a) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi quy định tại khoản 1; khoản 2; các điểm a cùng b khoản 3; các điểm b, c cùng d khoản 4 cùng khoản 5 Điều này;
b) Đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 12 tháng đối với hành vi quy định tại điểm đ khoản 3 Điều này;
c) Trục xuất người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 cùng 5 Điều này.
Biện pháp khắc phục hậu quả đối với trường hợp này được quy định tại Khoản 7 Điều này như sau:
Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 1; khoản 2; các điểm a cùng b khoản 3; các điểm b, c cùng d khoản 4 cùng khoản 5 Điều này
Vì vậy, theo hướng dẫn hiện hành mặc dù không có quy định đối với việc thế nào là đánh bạc trái phép. Tuy nhiên tại Nghị định này liệt kê một số cách thức đánh bạc. Trong đó bao gồm các cách thức được ăn thua bằng tiền, tài sản, hiện vật.
Đánh bạc bao nhiêu tiền thì bị truy tố hình sự?
Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ cách thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng trở lên thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì cũng bị xử lý hình sự.
Căn cứ theo hướng dẫn Điều 321, Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 khi quy định về tội đánh bạc.
Với giá trị tài sản của đánh bạc của bạn lên tới 200 triệu đồng thì bạn thuộc trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo hướng dẫn tại điểm b, khoản 2, Điều 321, Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 với giá trị của tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên.
Cách xác định số tiền để truy cứu hình sự vì tội đánh bạc
Căn cứ tại Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 về Tội đánh bạc.
Vì vậy, hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ cách thức nào, với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được đơn vị nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được đơn vị nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp đều là hành vi đánh bạc trái phép cùng phải chịu xử lý theo hướng dẫn Pháp luật.
Khi xác định số tiền trong Tội đánh bạc thì không tính tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các lần đánh bạc, mà phải căn cứ từng lần để xem xét. Căn cứ được quy định tại Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 cùng Điều 249 của Bộ luật hình sự như sau:
a) Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc đều dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (dưới 2.000.000 đồng) cùng không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm) thì người đánh bạc không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Đánh bạc;
b) Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của lần đánh bạc nào bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Đánh bạc đối với lần đánh bạc đó;
c) Trường hợp đánh bạc từ hai lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự;
d) Trường hợp đánh bạc từ 5 lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên) cùng lấy tiền, hiện vật do đánh bạc mà có làm nguồn sống chính thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết định khung “có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 248 của Bộ luật hình sự.
Theo đó, số tiền hoặc giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của từng lần đánh bạc là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc xác định chính xác số tiền này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định tội.
Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc bao gồm:
a) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc;
b) Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trong người các con bạc mà có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc;
c) Tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc.
Vì vậy, ngoài tiền cùng hiện vật sử dụng đánh bạc thu được trực tiếp tại chiếu bạc, thì những tài sản trên người bao gồm cả tiền cùng hiện vật bị đơn vị chức năng thu giữ mà có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc thì cũng được xác định là tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc.
Nếu tổng số tiền thu trực tiếp tại chiếu bạc cùng với số tiền, hiện vật thu giữ trên người mà chứng minh được là sẽ sử dụng để đánh bạc từ 5.000.000 đồng trở lên thì người đánh bạc sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội đánh bạc theo hướng dẫn tại Điều 321 Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017. Số tiền, hiện vật này sẽ bị tịch thu sung quỹ của Nhà nước.
Nếu tiền hoặc hiện vật bị thu giữ trên người, nếu chứng minh không sử dụng để đánh bạc thì sẽ được trả lại cho người đánh bạc.
Mời các bạn xem thêm bài viết
- Xe máy chỉ có một gương chiếu hậu có bị phạt không?
- Thay đổi kết cấu xe máy phạt bao nhiêu tiền?
- Giới hạn kích thước hàng hóa xe máy được phép chở tại Việt Nam theo QĐ 2022
Liên hệ ngay
Trên đây là nội dung bài viết liên quan đến vấn đề “Chơi xổ số lô tô có phải là cờ bạc không?” Hy vọng bài viết có ích cho bạn đọc, LVN Group với đội ngũ LVN Group, chuyên gia cùng chuyên viên pháp lý dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ cung cấp dịch vụ pháp lý như Thủ tục chứng thực chữ ký. Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe mọi câu hỏi của quý khách hàng. Thông tin chi tiết quý khách hàng vui lòng liên hệ qua số hotline: 1900.0191
- FB: www.facebook.com/lvngroup
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@lvngroup
- Youtube: https://www.youtube.com/Lvngroupx
Giải đáp có liên quan
Trong trường hợp cho người khác mượn tiền nhưng bạn không biết mục đích của họ là dùng số tiền đó để đánh bạc thì coi như hành vi cho mượn tiền này là một giao dịch dân sự bình thường. Vì bạn không biết mục đích của người này nên bạn cũng không thuộc trường hợp không tố giác tội phạm, che giấu tội phạm, hoặc người giúp sức do đó bạn không bị tội gì.
Tuy nhiên, đối với trường hợp bạn đã biết mục đích của người này là vay tiền để đánh bạc nhưng bạn vẫn cho vay. Có thể được xem là đồng phạm trong tội đánh bạc
Người chỉ đứng/ngồi xem đánh bạc mà không tham gia đánh bạc thì sẽ không bị xử lý. Tuy nhiên, trong trường hợp bị đơn vị công an bắt giữ, người xem đánh bạc phải chứng minh được việc mình chỉ xem mà không tham gia chơi.
Căn cứ theo khoản 3 Điều 1 Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP hướng dẫn về một số quy định tại Điều 248 của Bộ luật Hình sự 1999 tuy đã hết hiệu lực thi hành nhưng hiện nay tinh thần của nội dung Nghị quyết này vẫn được áp dụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử với tội danh đánh bạc.
Căn cứ khoản 3 Điều 1 Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP quy định như sau:
“3. “Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc” bao gồm:
a) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc;
b) Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trong người các con bạc mà có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc;
c) Tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc.”
Theo đó, tiền dùng để đánh bạc không chỉ là khoản tiền thu được trực tiếp trên chiếu bạc mà có thể bao gồm cả khoản tiền trong túi, trong người các con bạc mà có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc, tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc như trong tài khoản, trong nhà của những người có liên quan đến hành vi đánh bạc.
Vì vậy, đơn vị chức năng cần thu thập chứng cứ, xác minh để chứng minh được số tiền hoặc hiện vật ngoài chiếu bạc là tiền, hoặc hiện vật đã, sẽ sử dụng để đánh bạc.