Người bị phạt tù oan ai chịu trách nhiệm bồi thường quy định 2023

Mặc dù không thường gặp nhưng thực tiễn cũng vẫn có trường hợp bị kết án cùng đi tù oan. Việc bị chịu ngồi tù oan để lại nhiều hệ lụy ảnh hưởng tới tương lai sau này, gây ra nhiều đau khổ mất mát cho gia đình, người thân cùng cả chính người bị oan. Theo quy định trong Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017 đã quy định thì đối tượng được bồi thường tổn hại là cá nhân hay tổ chức bị tổn hại về vật chất cùng cả những tổn hại về tinh thần do người thi hành công vụ gây ra thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cũng được quy định tại bộ luật này. Xin mời các bạn bạn đọc cùng tìm hiểu qua bài viết của LVN Group để hiểu cùng nắm rõ được những quy định về “Người bị phạt tù oan ai chịu trách nhiệm bồi thường” có thể giúp các bạn bạn đọc hiểu sâu hơn về pháp luật.

Văn bản quy định

  • Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017

Người bị phạt tù oan ai chịu trách nhiệm bồi thường

Tại Khoản 7 Điều 3 Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017 quy định như sau:

“Điều 3. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

7. Cơ quan giải quyết bồi thường là đơn vị trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây tổn hại hoặc Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án theo hướng dẫn của pháp luật về tố tụng.”

Những trường hợp đơn vị điều tra hoặc đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là đơn vị giải quyết bồi thường

Căn cứ theo Điều 34 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017 quy định như sau:

“Điều 34. Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra giải quyết bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự

Cơ quan điều tra hoặc đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là đơn vị giải quyết bồi thường trong các trường hợp sau đây:

1. Đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp mà không có căn cứ theo hướng dẫn của Bộ luật Tố tụng hình sự cùng người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; đã ra lệnh bắt, quyết định tạm giữ nhưng đơn vị, người có thẩm quyền quyết định trả tự do, hủy bỏ quyết định tạm giữ, không phê chuẩn lệnh bắt, không phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;

2. Đã ra quyết định khởi tố bị can nhưng Viện kiểm sát không phê chuẩn quyết định khởi tố vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm;

3. Viện kiểm sát quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra ra kết luận điều tra bổ sung hoặc kết luận điều tra mới đề nghị truy tố nhưng Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm.”

Quy định viện kiểm sát giải quyết bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự

Căn cứ theo Điều 35 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017 quy định như sau:

“Điều 35. Viện kiểm sát giải quyết bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự

Viện kiểm sát là đơn vị giải quyết bồi thường trong các trường hợp sau đây:

1. Đã phê chuẩn lệnh bắt, quyết định gia hạn tạm giữ của Cơ quan điều tra hoặc đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhưng người bị bắt, bị tạm giữ không có hành vi vi phạm pháp luật;

2. Đã phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc đã ra quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam, quyết định gia hạn tạm giam mà sau đó có quyết định của đơn vị, người có thẩm quyền xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 34 của Luật này; đã quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng căn cứ kết quả điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm;

3. Đã ra quyết định truy tố bị can nhưng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm cùng bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật;

4. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng sau đó có quyết định của đơn vị, người có thẩm quyền đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm;

5. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng sau đó tuyên bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm cùng bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật;

6. Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm;

7. Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm cùng sau đó Tòa án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vẫn giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm.”

Tòa án giải quyết bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự

Căn cứ theo Điều 36 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017 quy định như sau:

“Điều 36. Tòa án giải quyết bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự

1. Tòa án cấp sơ thẩm là đơn vị giải quyết bồi thường trong các trường hợp sau đây:

a) Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo có tội nhưng Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội cùng đình chỉ vụ án vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm;

b) Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo có tội nhưng Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại mà sau đó bị can được đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm;

c) Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo có tội nhưng Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại mà sau đó bị cáo được tuyên không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm;

d) Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo có tội cùng bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm hủy bản án sơ thẩm cùng đình chỉ vụ án vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm;

đ) Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo có tội cùng bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại mà sau đó bị can được đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm;

e) Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo có tội cùng bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại mà sau đó bị cáo được tuyên không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm.

2. Tòa án cấp phúc thẩm là đơn vị giải quyết bồi thường trong các trường hợp sau đây:

a) Tòa án cấp phúc thẩm tuyên bị cáo có tội nhưng Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm hủy bản án phúc thẩm cùng đình chỉ vụ án vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm;

b) Tòa án cấp phúc thẩm tuyên bị cáo có tội nhưng Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm hủy bản án phúc thẩm để điều tra lại mà sau đó bị can được đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm;

c) Tòa án cấp phúc thẩm tuyên bị cáo có tội nhưng Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm hủy bản án phúc thẩm để xét xử lại mà sau đó bị cáo được tuyên không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm.

3. Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm là đơn vị giải quyết bồi thường trong các trường hợp sau đây:

a) Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương mà quyết định bị hủy đã xác định bị cáo có tội cùng đình chỉ vụ án vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm;

b) Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương mà quyết định bị hủy đã xác định bị cáo có tội để điều tra lại nhưng sau đó bị can được đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm;

c) Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương mà quyết định bị hủy đã xác định bị cáo có tội để xét xử lại nhưng sau đó bị cáo được tuyên không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm.

4. Tòa án nhân dân tối cao là đơn vị giải quyết bồi thường trong các trường hợp sau đây:

a) Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của mình mà quyết định bị hủy đã xác định bị cáo có tội, hủy bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật, đồng thời quyết định về nội dung vụ án cùng tuyên bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm;

b) Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của mình mà quyết định bị hủy đã xác định bị cáo có tội, hủy bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại nhưng sau đó bị can được đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm;

c) Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của mình mà quyết định bị hủy đã xác định bị cáo có tội, hủy bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật để xét xử lại nhưng sau đó bị cáo được tuyên không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm.”

Quy định về việc bồi thường khi bị đi tù oan

Theo quy định tại Điều 7 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, các cá nhân, tổ chức bị tổn hại về vật chất, tổn hại về tinh thần do người thi hành công vụ gây ra sẽ được Nhà nước bồi thường tổn hại nếu:

“Điều 7. Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

1. Nhà nước có trách nhiệm bồi thường khi có đủ các căn cứ sau đây:

a) Có một trong các căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây tổn hại cùng yêu cầu bồi thường tương ứng quy định tại khoản 2 Điều này;

b) Có tổn hại thực tiễn của người bị tổn hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo hướng dẫn của Luật này;

c) Có mối quan hệ nhân quả giữa tổn hại thực tiễn cùng hành vi gây tổn hại.

2. Căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây tổn hại cùng yêu cầu bồi thường tương ứng bao gồm:

a) Có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường theo hướng dẫn của Luật này cùng có yêu cầu đơn vị trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây tổn hại hoặc Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự giải quyết yêu cầu bồi thường;

b) Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính đã xác định có hành vi trái pháp luật của người bị kiện là người thi hành công vụ gây tổn hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cùng có yêu cầu bồi thường trước hoặc tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cùng đối thoại;

c) Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự đã xác định có hành vi trái pháp luật của bị cáo là người thi hành công vụ gây tổn hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự, thi hành án dân sự cùng có yêu cầu bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.”

Bên cạnh đó, theo hướng dẫn tại Điều 22 Luật này quy định rằng, tổn hại được Nhà nước bồi thường là tổn hại thực tiễn đã phát sinh cùng các khoản lãi (nếu có) được tính từ ngày phát sinh tổn hại thực tiễn cho đến khi chấm dứt tổn hại đó, gồm:

“Điều 22. Xác định tổn hại

1. Thiệt hại được bồi thường là tổn hại thực tiễn đã phát sinh, các khoản lãi quy định tại các điều 23, 24, 25, 26 cùng 27 của Luật này cùng chi phí khác quy định tại Điều 28 của Luật này.

2. Giá trị tổn hại được bồi thường được tính tại thời gian thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường quy định tại Điều 43 của Luật này hoặc tại thời gian Tòa án cấp sơ thẩm xác định giá trị tổn hại đối với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 52 cùng Điều 55 của Luật này. Trường hợp người yêu cầu bồi thường khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 52 của Luật này thì giá trị tổn hại vẫn được tính tại thời gian thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường trước đó.

3. Khoảng thời gian làm căn cứ xác định tổn hại được bồi thường quy định tại các khoản 3, 4 cùng 5 Điều 23, Điều 24, các khoản 1, 2 cùng 3 Điều 25, các khoản 1, 2, 3 cùng điểm a khoản 4 Điều 26, khoản 3 Điều 27 của Luật này được tính từ ngày phát sinh tổn hại thực tiễn cho đến khi chấm dứt tổn hại đó.

Chính phủ quy định chi tiết khoản này.”

Mặt khác, còn được bồi thường các chi phí khác như: chi phí thuê phòng nghỉ, chi phí đi lại, in ấn tài liệu, gửi đơn thư trong quá trình khiếu nại, tố cáo; chi phí thuê người bào chữa, người bảo vệ quyền cùng lợi ích hợp pháp của người bị tổn hại; chi phí đi lại để thăm gặp của thân nhân người bị tạm giữ, người bị tạm giam, người chấp hành án phạt tù trong tố tụng hình sự.

Mời các bạn xem thêm bài viết

  • Trách nhiệm bồi thường tổn hại ngoài hợp đồng được quy định thế nào?
  • Trách nhiệm bồi thường nhà nước trong quản lý hành chính
  • Hàng gửi bưu điện bị lạc, trách nhiệm bồi thường quy định thế nào?

Liên hệ ngay

LVN Group sẽ uỷ quyền khách hàng để giải quyết các vụ việc có liên quan đến vấn đề “Người bị phạt tù oan ai chịu trách nhiệm bồi thường” hoặc các dịch vụ khác như là thủ tục sang tên sổ đỏ sau khi ly hôn. Với kinh nghiệm nhiều năm trong ngành cùng đội ngũ chuyên gia pháp lý dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ hỗ trợ quý khách hàng tháo gỡ vướng mắc, không gặp bất kỳ trở ngại nào. Hãy liên lạc với số hotline 1900.0191 để được trao đổi chi tiết, xúc tiến công việc diễn ra nhanh chóng, bảo mật, uy tín.

  • FB: www.facebook.com/lvngroup
  • Tiktok: https://www.tiktok.com/@lvngroup
  • Youtube: https://www.youtube.com/Lvngroupx

Giải đáp có liên quan

Bồi thường tổn hại cho người bị oan đã mất thế nào?

Trong câu hỏi của bạn có đề cập đến việc bồi thường thiệt hạ cho người bị oan khi họ đã mất. Về vấn đề này, Điều 25 Luật Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định các chi phí bồi thường như sau:
– Chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo hướng dẫn của pháp luật về khám, chữa bệnh cho người bị tổn hại trước khi chết.
– Chi phí bồi dưỡng sức khỏe cho người bị tổn hại trước khi chết được xác định là 01 ngày lương tối thiểu vùng tại cơ sở khám, chữa bệnh cho 01 ngày khám bệnh, chữa bệnh theo số ngày trong hồ sơ bệnh án.
– Chi phí cho người chăm sóc người bị tổn hại trong thời gian khám bệnh, chữa bệnh trước khi chết được xác định là 01 ngày lương tối thiểu vùng tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cho 01 ngày chăm sóc người bị tổn hại.
– Chi phí cho việc mai táng người bị tổn hại chết được xác định theo mức trợ cấp mai táng theo hướng dẫn của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
– Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị tổn hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được xác định là 01 tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người được cấp dưỡng đang cư trú cho mỗi tháng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc đã được xác định theo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của đơn vị nhà nước có thẩm quyền.
Theo khoản 4 Điều 27 Luật Trách nhiệm bồi thường thì tổn hại về tinh thần trong trường hợp người bị tổn hại chết được xác định là 360 tháng lương cơ sở.

Nguyên tắc bồi thường oan sai trong tố tụng hình sự thế nào?

Theo Điều 4 Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước:
Việc giải quyết yêu cầu bồi thường được thực hiện kịp thời, công khai, bình đẳng, thiện chí, trung thực, đúng pháp luật; được tiến hành trên cơ sở thương lượng giữa đơn vị giải quyết bồi thường cùng người yêu cầu bồi thường. Việc giải quyết yêu cầu bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện tại đơn vị trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây tổn hại
Người yêu cầu bồi thường đã yêu cầu một trong các đơn vị giải quyết bồi thường quy định tại khoản 7 Điều 3 của Luật này giải quyết yêu cầu bồi thường cùng đã được đơn vị đó thụ lý giải quyết thì không được yêu cầu đơn vị có thẩm quyền khác giải quyết yêu cầu bồi thường, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 cùng khoản 2 Điều 52 của Luật này.
Nhà nước giải quyết yêu cầu bồi thường sau khi có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường hoặc kết hợp giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự, tố tụng hành chính tại Tòa án đối với yêu cầu bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự, thi hành án dân sự theo hướng dẫn của Luật này.
Trường hợp người bị tổn hại có một phần lỗi trong việc gây ra tổn hại thì Nhà nước chỉ bồi thường phần tổn hại sau khi trừ đi phần tổn hại tương ứng với phần lỗi của người bị tổn hại

Thời gian để bồi thường về tinh thần cho người bị phạt tù oan được xác định thế nào?

Tại Điều 11 Nghị định 68/2018/NĐ-CP quy định về khoảng thời gian làm căn cứ xác định tổn hại về tinh thần như sau:
1. Người bị tổn hại bị bắt, tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù quy định tại điểm b Khoản 3 Điều 27 của Luật thì khoảng thời gian được tính kể từ ngày người bị tổn hại bị bắt, tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù đến ngày chấp hành xong biện pháp ngăn chặn hoặc được trả tự do hoặc đến ngày chấp hành xong hình phạt tù.
2. Người bị tổn hại không bị bắt, tạm giữ, tạm giam hoặc chấp hành hình phạt không phải hình phạt tù quy định tại điểm c Khoản 3 Điều 27 của Luật thì khoảng thời gian được tính kể từ ngày người bị tổn hại bị khởi tố hoặc chấp hành hình phạt đến ngày có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường.
3. Người bị tổn hại chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù cho hưởng án treo quy định tại điểm d Khoản 3 Điều 27 của Luật thì khoảng thời gian được tính kể từ ngày người bị tổn hại chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù cho hưởng án treo đến ngày chấp hành xong hình phạt.
4. Người bị tổn hại đã chấp hành xong hình phạt theo bản án, quyết định của Tòa án mà sau đó có bản án, quyết định của đơn vị, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó thuộc trường hợp được bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự quy định tại điểm đ Khoản 3 Điều 27 của Luật thì khoảng thời gian được tính kể từ ngày người bị tổn hại đã chấp hành xong hình phạt cho đến ngày có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường.
Theo như quy định nêu trên thì đối với người bị kết án tù oan đang chấp hành phạt tù thì thời gian để xác định bồi thường về tinh thần là khoảng thời gian được tính kể từ ngày người bị tổn hại chấp hành hình phạt tù đến ngày chấp hành xong hình phạt tù.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com