Thực trạng văn hóa công sở hiện nay

Tóm tắt: Hiện nay, song song với mong muốn cải cách hành chính của chính quyền các cấp, văn hóa công sở đang tác động đến mọi tầng lớp xã hội. Chúng ta dễ dàng nhận thấy văn hóa công sở là một dạng  văn hóa xã hội cụ thể, bao gồm tổng thể các giá trị, chuẩn mực và cách ứng xử trong hoạt động công sở mà các thành viên trong công sở thừa nhận và tuân theo để ứng xử với nhau trong  công sở và phục vụ xã hội. Trong nội dung trình bày này, chúng tôi sẽ làm rõ khái niệm văn hóa công sở là gì? Tại sao phải tạo ra văn hóa công sở? Cần chú ý gì khi xây dựng văn hóa công sở?

1. Nêu vấn đề

Công sở là khái niệm chỉ trụ sở của đơn vị nhà nước [5] . Vì vậy, công sở là một bộ phận không thể thiếu trong bộ máy quản lý nhà nước, đồng thời là một thiết chế xã hội. Nơi công tác trong xã hội tồn tại như một sự kiện văn hóa, đồng thời là  chủ thể văn hóa gắn liền với  yếu tố tổ chức quyền lực và tâm lý, tình cảm  con người.

Văn hóa công sở là một hệ thống được hình thành trong quá trình hoạt động của công sở, tạo nên những giá trị niềm tin  về thái độ công tác của  chuyên viên  trong công sở, ảnh hưởng đến cách công tác trong công sở và hiệu quả công việc của công sở. Văn hóa công sở xuất phát từ  vai trò của công sở trong đời sống xã hội và trong bản thân hoạt động của  bộ máy hành chính. Có thể dễ dàng nhận thấy, văn hóa công sở là một dạng  văn hóa xã hội cụ thể, bao gồm tập hợp các giá trị, chuẩn mực và cách ứng xử trong hoạt động công sở mà các thành viên công sở; nhận biết và tuân theo để ứng xử với nhau trong  công sở và phục vụ xã hội.

Xây dựng văn hóa công sở tức là xây dựng tác phong công tác khoa học, có nguyên tắc nhất định và phương thức hoạt động cụ thể. Điều này đòi hỏi các nhà lãnh đạo, quản lý cũng như các thành viên trong đơn vị phải quan tâm đến hiệu quả  chung của đơn vị mình. Muốn vậy, người quản lý, cán bộ, công  chức phải chấp hành kỷ luật đơn vị, bảo đảm danh dự  đơn vị, xử lý một người, đoàn kết, hợp tác theo nguyên tắc chung, chống  bệnh quan liêu, cửa quyền, cơ hội chủ nghĩa. , chủ nghĩa bè phái.

 2. Những quy định về văn hóa công sở

Văn bản điều chỉnh trực tiếp, đầu tiên là Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg ngày 02/8/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành “Ban hành Quy chế văn hóa công sở tại các đơn vị hành chính nhà nước”.

Sau 11 năm thực hiện, đến ngày 27/12/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Đề án Văn hóa công vụ theo Quyết định số 1847/QĐ-TTg. Mặt khác, Thủ tướng Chính phủ còn ban hành nhiều văn bản có liên quan như: Chỉ thị số 05/2008/CT-TTg ngày 31/01/2008 về việc nâng cao hiệu quả sử dụng thời giờ công tác của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, Chỉ thị 26/CT-TTg ngày 05/9/2016 về tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các đơn vị hành chính nhà nước các cấp, Quyết định 45/2018/QĐ-TTg ngày 09/11/2018 quy định chế độ họp trong hoạt động quản lý, điều hành của đơn vị thuộc hệ thống hành chính nhà nước[1],..

Điều đáng tiếc là dự thảo Luật Công vụ (được Chính phủ giao Bộ Nội vụ chủ trì soạn thảo từ năm 2007 và cho đến nay, dự luật cũng chưa được thông qua và đã chuyển một phần sang Luật Cán bộ công chức), dự thảo Luật Hành chính công (của đại biểu Trần Thị Quốc Khánh) và Luật Cán bộ, công chức (có hiệu lực từ ngày 01/01/2010), Luật Viên chức (có hiệu lực từ ngày 01/01/2012), gần nhất là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức (có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2020) cũng vẫn không có điều khoản đề cập đến nội dung văn hóa công sở-một vấn đề có vai trò rất cần thiết trong nền hành chính hiện đại, để từ đó định hình và hoàn thiện một “Bộ chuẩn mực văn hóa tại các đơn vị, đơn vị của nhà nước” ở cấp độ luật[2].

Qua đánh giá có thể thấy rõ những chuyển biến tích cực sau một thời gian thực hiện Quyết định 127/2007/QĐ-TTg và nay là Quyết định 1847/QĐ-TTg. Trang phục công tác của cán bộ, công chức, viên chức trong đơn vị Nhà nước từng bước được chuẩn hóa về cách thức, thẩm mỹ và phù hợp điều kiện kinh tế-văn hóa, xã hội của nước ta. Phong cách giao tiếp và ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức khi thi hành nhiệm vụ đã có những tiến bộ rõ rệt. Nhìn chung, các quy định về giao tiếp, ứng xử đã thể hiện  tinh hoa  văn hóa giao tiếp của dân tộc và bước đầu tiếp cận với xu thế chung của thế giới. Việc bố trí công sở trong các đơn vị hành chính nhà nước đang dần được quy định cả bên ngoài và bên trong công sở. Những tiến bộ này đã góp phần hình thành một nền hành chính công  Việt Nam từng bước hiện đại, hiệu quả, thể hiện rõ nét sự chuyển dịch từ tư duy quản lý hành chính sang tư duy phục vụ (từ “tư duy quản lý nhân dân sang tư duy phục vụ nhân dân”). đại biểu Hồ Thị Thu Hằng, tỉnh Vĩnh Long dự kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XII ngày 09/11/2010).

Tuy nhiên, cần thẳng thắn nhìn nhận  những tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện văn hóa công sở hiện nay để  có giải pháp tiếp tục xây dựng văn hóa-văn minh công sở trong thời gian tới.

  3. Một số biểu hiện của sự thiếu văn hóa nơi công sở hiện nay

Đầu tiên là sự thiếu văn hóa trong việc thiết lập hệ thống mục tiêu cá nhân tại nơi công tác. Thực tế ở nhiều công sở ở nước ta hiện nay không có sự giao thoa giữa mục tiêu chung của công sở với mục tiêu riêng của từng người điều hành, công chức, viên chức mà biểu hiện chung nhất  là nhiều nhà quản lý coi công sở như một đòn bẩy. , một nơi nương tựa để thăng tiến, trong khi cán bộ, công chức, viên chức phải bươn chải kiếm sống. Cán bộ, công chức, viên chức chưa quan tâm đến sứ mệnh của tổ chức mà mình  phục vụ, dẫn đến thái độ, hành vi “nghề chọn việc”, tức là đơn vị, đơn vị nào công tác nhẹ nhàng, nhàn hạ thì thu nhập khác. hơn tiền lương, nó dễ dàng được nhắm mục tiêu (hoặc vượt qua đối thủ cạnh tranh).

Thứ hai, một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức  còn có biểu hiện thờ ơ, vô cảm trước nguyện vọng của công dân mà biểu hiện rõ nhất là vấn đề giải quyết hồ sơ, thủ tục nhũng nhiễu, chậm trễ, đặc biệt còn có tình trạng “làm cho luật”; hay việc xử lý yêu cầu, đơn thư của công dân còn chậm nên người dân phải đi lại nhiều.

Thứ ba, thiếu tôn trọng hoặc coi thường kết quả công việc của đồng nghiệp là một trong những thực trạng tồn tại ở một số nơi công tác hiện nay. Nhiều khi đánh giá chất lượng cán bộ, công chức, viên chức[3], tuy có tiêu chí mức độ hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn, nhưng nhiều lúc kết quả đánh giá lại thiên về những điều không ăn nhập gì với chuyên môn như: tuổi tác, mối quan hệ cá nhân của người được đánh giá…, dẫn đến suy giảm niềm tin, giảm nhiệt huyết, dần thay đổi thái độ công tác.

Thứ tư, một số quy định bắt buộc về văn hóa công sở chưa được thực hiện nghiêm túc như: (1) Vi phạm thời giờ công tác, lãng phí thời gian công tác (buôn chuyện tại công sở, công tác riêng trong giờ hành chính hoặc trong thời gian đi công tác…), lãng phí nguồn lực công (tiền điện thoại, tiền điện, nước, vật tư văn phòng, xe công sử dụng cho mục đích riêng…) cũng như chất lượng công việc. Thủ tướng Chính phủ đã khẳng định vẫn còn có tình trạng nhiều cán bộ, công chức, viên chức “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về” [6]; (2) Việc thực hiện quy định cấm hút thuốc trong công sở, cấm sử dụng rượu, bia trước giờ công tác, buổi trưa ngày công tác (có thể vì lý do tiếp khách) tuy không còn phổ biến nhưng cũng vẫn là một vấn đề phải đặt ra…

Nguyên nhân chủ yếu là cách đối xử hiện nay tại công sở hầu hết vẫn dựa trên tư duy và thói quen duy tình trước đây (“Đưa nhau đến trước cửa quan, bên ngoài là lý, bên trong là tình”, “Một bồ cái lý không bằng một tý cái tình”) nên việc vi phạm thường dễ bị cho qua, nhất là khi người vi phạm là lãnh đạo.

Thứ năm, một điểm còn tồn tại nữa là thói quen dựa vào tập thể, sống theo tập thể mà không có chính kiến cụ thể, thiếu ý thức cải tiến, đấu tranh chống lại thói quen xấu, cách làm xấu “thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh” của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức với tư duy “nước trôi thì bèo trôi”, “nước nổi thì thuyền nổi”, “xấu đều hơn tốt lỏi”, cá biệt dẫn đến sai phạm mang tính chất tập thể trong thời gian dài, khi phát hiện ra thì ngụy biện “ai cũng gù, mình thẳng lưng là khuyết tật” [7].

Thực trạng này cũng đã được nêu rõ tại Chỉ thị 35-CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị “Về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”.

 4. Cách tạo dựng văn hóa công sở[4]

 4.1. Xây dựng  hệ giá trị chuẩn mực về văn hóa công sở:

Yêu cầu đầu tiên là phải có “Chuẩn mực văn hóa trong đơn vị, đơn vị  nhà nước” được ban hành hợp pháp. Bên cạnh đó, phải có hình phạt cụ thể, đủ mạnh để xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm các chuẩn mực  văn hóa  công sở. Để hiện thực hóa các giá trị văn hóa công sở, chỉ có thể thực hiện  bằng việc trước hết phải làm gương cho cấp trên, cấp dưới làm theo; người lãnh đạo làm gương cho chuyên viên, toàn thể chấp hành viên, công chức, viên chức cùng hành động. Khi đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức vững tin  vào những giá trị văn hóa  công sở  theo đuổi thì những biểu hiện thiếu văn hóa trong đơn vị nhà nước sẽ dần bị loại bỏ.

 4.2. Xây dựng bầu không khí tâm lý công sở[5]:

Bầu không khí tâm lý thể hiện mức độ hòa hợp các đặc điểm tâm lý trong quan hệ liên nhân cách của cán bộ công chức và được hình thành từ thái độ của mọi người trong tổ chức, đơn vị nhà nước đối với công việc, bạn bè, đồng nghiệp và người lãnh đạo của họ. Nếu không khí công tác cởi mở, tin tưởng lẫn nhau sẽ khơi nguồn được sự sáng tạo của các thành viên và ngược lại, nếu bầu không khí nặng nề, căng thẳng sẽ là rào cản đối với hoạt động của công sở. Không thể có một công sở văn hóa nếu trong nội bộ luôn tồn tại căng thẳng, soi xét lẫn nhau; cấp dưới nghi ngờ cấp trên, cấp trên đề phòng cấp dưới, cán bộ, công chức, viên chức khi công tác chỉ để đến tháng nhận lương, ngoài ra không quan tâm đến những vấn đề khác…

Do đó, nhà quản lý phải vừa duy trì động lực công tác của cán bộ, công chức, viên chức vừa phải thường xuyên cải tiến để tránh tạo ra “sức ỳ” thông qua tạo lập, truyền cảm hứng và duy trì cảm hứng, động lực công tác của cán bộ, công chức, viên chức trong công sở.

  4.3. Xây dựng tác phong công tác chuyên nghiệp, trách nhiệm

Chuyên nghiệp, hiểu theo nghĩa chung nhất là mỗi người chuyên tâm vào công việc của mình, toàn tâm, toàn ý để hoàn thành công việc của mình một cách tốt nhất; chuyên nghiệp là có sự hiểu biết rộng và giỏi một lĩnh vực cụ thể. Trong hành chính công vụ, chuyên nghiệp còn là biết cách phối hợp, điều tiết công việc phù hợp với tiến độ và môi trường xung quanh để tạo nên hiệu quả tốt nhất; tác phong công tác năng động, khoa học kết hợp với việc ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ mới vào công việc. Trách nhiệm trong quản lý công việc là làm một cách tự tin, chắc chắn, gắn  khả năng của mình với công việc này, nghĩa là “đặt” danh dự cá nhân lên trên công việc được giao với mong muốn đạt chất lượng và hiệu quả cao nhất.

Tác phong chuyên nghiệp và trách nhiệm đòi hỏi người quản lý và  chuyên viên phải thực hiện tốt những nội dung cốt lõi sau:

a) Thái độ, tác phong công tác chuyên nghiệp

Một trong những hạn chế  phổ biến của cán bộ, công chức, viên chức thừa hành công vụ là công tác thiếu khoa học, thiếu nhiệt tình. Biểu hiện là không tôn trọng thời gian (giờ cao su), công tác chậm chạp, không có kế hoạch  rõ ràng, chính xác, không biết sắp xếp công việc trước sau dẫn đến công tác thụ động, hiệu quả thấp, thường giải quyết cho xong việc. Vì vậy, cần tạo cho mình tác phong công tác khoa học, đúng giờ, có kế hoạch và tiết kiệm thời gian.

b) Chuyên nghiệp trong xây dựng và coi trọng giá trị tập thể, luôn hướng tới sự đồng tâm hiệp lực để đạt được kết quả tốt nhất

Trong văn phòng, mọi người đều có một nhiệm vụ cụ thể, nhưng mọi người phải đồng ý về một mục tiêu chung. Để xây dựng văn hóa công sở, bạn phải biết  cân bằng giữa hai khái niệm “tập thể” và “cá nhân”. Vì vậy, tính độc lập của chấp hành viên, công chức, viên chức  phải luôn gắn với tinh thần hợp tác tập thể “đồng đội”; đồng thời, tuy “mạnh ai nấy làm” nhưng không phải “mạnh ai nấy làm” mà phải có sự tương tác, hỗ trợ  phù hợp; người có kinh nghiệm, người đi trước hướng dẫn giây, người mới vào.

c) Nghiệp vụ giao tiếp, ứng xử Giao tiếp nơi công sở là một khoa học và  một nghệ thuật. Giao tiếp hiệu quả  của cán bộ, công chức, viên chức góp phần xây dựng  nhà nước thân thiện, phục vụ nhân dân, hơn nữa giao tiếp hiệu quả giúp công sở hạn chế  những rủi ro như so sánh, hiểu lầm, “không bằng lòng”… có thể dẫn đến mâu thuẫn nội bộ mất đoàn kết, kiện cáo. Đối với cá nhân, giao tiếp tốt còn mở rộng các mối quan hệ xã hội và nhanh chóng nắm bắt  các cơ hội đến với mình.

Tính chuyên nghiệp trong giao tiếp, ứng xử cũng đòi hỏi các đơn vị, đơn vị và mỗi cán bộ, công chức, viên chức nhà nước phải thực hành tốt  công tác dân vận trong thực thi công vụ. Điều này liên quan đến truyền thông tốt hơn để duy trì niềm tin xã hội bằng cách làm cho công chúng hiểu những gì đang xảy ra trong các vấn đề công  một cách trọn vẹn và cập nhật từ phía công chúng, nhằm hạn chế việc thiếu thông tin dẫn đến hiểu sai và xuyên tạc [ 3] .

d) Có tính chuyên nghiệp, chủ động tự trang bị, cập nhật  kiến ​​thức mới phù hợp để chủ động thực hiện nhiệm vụ được giao. Tác giả có chung quan điểm cho rằng: Cán bộ, công chức, viên chức luôn giữ  thái độ học tập nghiêm túc cũng  là một biểu hiện của sự thành công [1]. Để chuẩn hóa trình độ, công chức, viên chức, đơn vị sự nghiệp có thể đăng ký đào tạo; Nếu học để nâng cao hiểu biết (đây là mục tiêu cao nhất,  quý giá nhất) thì cán bộ quản lý, công chức, viên chức có thể học mọi lúc, mọi nơi, nhất là để nâng cao trình độ tin học trong điều kiện công vụ. Công nghệ phát triển nhanh trong guồng quay của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,  ngoại ngữ thông thạo với điều kiện Thủ tướng Chính phủ  ban hành Quyết định 1659/QĐ-TTg ngày 19/11/2019 phê duyệt Đề án “Chương trình học ngoại ngữ quốc gia  cho cán bộ, công chức, viên chức người lao động giai đoạn 2019-2030” [6].

Đặc biệt, việc nâng cao trình độ không chỉ là yêu cầu của cán bộ chuyên môn mà cán bộ lãnh đạo, quản lý cũng  phải luôn tự học để nâng cao bản lĩnh lãnh đạo, quản lý, phê bình và nâng cao uy tín thực sự. , xóa bỏ dần những tiếng xấu[7], không để cán bộ, công chức, viên chức dưới quyền đánh giá, coi thường  trình độ,  năng lực của cán bộ.

đ) Chuyên môn kỷ luật, tích cực tham gia các hoạt động do đoàn thể phát động. Chuyên nghiệp còn có nghĩa là tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh trong cơ hội thăng tiến. Một nhà điều hành chuyên nghiệp, công chức, viên chức  còn phải biết làm  hết sức, chơi hết mình; Thư giãn đúng cách, đúng mức, đúng lúc (tất nhiên không  quá nhiều, không vi phạm) là biện pháp tốt nhất để phục hồi  năng lượng đã mất.

f) Phát huy cao độ trách nhiệm.
Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng đã khẳng định chắc chắn rằng: “Đối với một nền quản trị quốc gia hiện đại, chế độ trách nhiệm là đòi hỏi cần thiết hàng đầu” [2].

Trách nhiệm ở đây nghĩa là luôn thực hiện công việc với tâm huyết và trí tuệ, đề cao lợi ích của nhân dân, đặt lợi ích của tập thể, đơn vị, đơn vị lên trên lợi ích cá nhân, coi trọng danh dự bản thân để hoàn thành công việc ở mức độ cao nhất, đồng thời khi có xảy ra sai phạm phải dám chịu trách nhiệm về hành vi của cá nhân mình hoặc tập thể mà mình là thành viên, chứ không phải chăm chăm đổ lỗi cho khách quan, cho tập thể, biến tập thể trở thành “nơi trú ẩn trách nhiệm“, làm cho trách nhiệm của cá nhân lẫn vào trách nhiệm tập thể và cuối cùng là không quy kết được người nào cụ thể (“Toét mắt là tại hướng đình, cả làng cùng toét, riêng mình em đâu!”).

g) Cuối cùng, đạo đức vẫn mang yếu tố sống còn
Đạo đức công vụ được thể hiện ra bên ngoài bằng những hành vi đạo đức, là quá trình tác động lẫn nhau giữa ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức của cán bộ, công chức, viên chức mà nội dung của nó được thể hiện trong mối quan hệ với nhà nước, với nhân dân và tổ chức, với cấp trên, cấp dưới và đồng nghiệp thông qua giải quyết công việc và trong ứng xử, giao tiếp và thông qua sự hài lòng và tín nhiệm của đối tượng phục vụ với họ.

Trách nhiệm đạo đức mang nghĩa là trách nhiệm phục vụ, được đánh giá bởi dư luận xã hội đối với hoạt động mang tính quyền lực của cán bộ công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn để bảo vệ và phục vụ quyền lợi của nhân dân, của nhà nước. Vì vậy, hoạt động của  đơn vị hành chính nhà nước có hoàn thiện được không và hiệu quả của nó phụ thuộc vào chất lượng  hoạt động phục vụ của mỗi cán bộ, công  chức.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng và nêu cao vấn đề đạo đức phục vụ nhân dân của cán bộ, đảng viên. Người viết: “Người cán bộ tốt phải có đạo đức cách mạng”, “Hy sinh gian khổ”. Mình làm trước mặt người ta, nhưng khi bình yên vui vẻ thì mình để người ta hưởng trước. Mới đây, trong nội dung trình bày về công tác chuẩn bị Đại hội Đảng lần thứ 13, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã tái khẳng định: “Tóm lại  phải  có cả đức và tài, trong đó có Đức. Đây là cái gốc (“Ba chữ Tâm  bằng ba chữ Tài”).

  5. Kết thúc

Ngày nay, trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cùng với nhận thức  không ngừng của mọi người, những biểu hiện thiếu văn hóa của các đơn vị nhà nước sẽ là lực cản cho sự phát triển chung của xã hội. Vì vậy, việc nhận thức đúng đắn và tích cực xây dựng văn hóa công sở sẽ góp phần cần thiết vào việc xây dựng nền hành chính công  hiện đại, hiệu quả, xây dựng chính quyền “liêm chính, kiến ​​tạo, hành động, phục vụ, hiệu quả”, góp phần xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Bên cạnh thể chế là những người thực thi công vụ với đạo đức, trách nhiệm và năng lực chuyên môn của họ. Nếu đã có  đủ quy định  thì cách duy nhất để mỗi cán bộ điều hành, công chức, viên chức trước khi công tác đáp ứng yêu cầu mới  là nghiên cứu về nó và phải tự mình  thay đổi.

[1] Thay thế Quyết định số 114/2006/QĐ-TTg ngày 25 tháng 5 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế chế độ họp trong hoạt động của  đơn vị  hành chính nhà nước.[2] Tuy nhiên, hiện nay các bộ, ngành,  đơn vị, đơn vị, địa phương đã chủ động xây dựng và ban hành Quy chế văn hóa công sở  để triển khai thực hiện.[3] Hiện nay đã thực hiện theo Nghị định 90/2020/NĐ-CP ngày 13/8/2020 của Chính phủ (có hiệu lực kể từ ngày 20/8/2020 (thay thế Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức và Nghị định 88/2017/NĐ-CP ngày 27/7/2017 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 56/2015/NĐ-CP).[4] Tác giả có cân nhắc một số nội dung trong nội dung trình bày: “Lạm bàn về văn hoá công sở” đăng ngày 03/01/2018 tại https://moha.gov.vn/congtlvnanbonu/goc-nhin-ve-can-bo-nu/lam-ban-ve-van-hoa-cong-so-37645.html[5] “Bầu không khí tâm lý xã hội trong tổ chức, đơn vị nhà nước là trạng thái tâm lý tương đối ổn định, là nét đặc trưng phản ánh thực trạng các mối quan hệ nảy sinh trong hoạt động của tổ chức, đơn vị (bao gồm các mối quan hệ về tình cảm giữa các cá nhân,mối quan hệ công việc trong cấu trúc chính thức và không chính thức tồn tại trong tổ chức đó)”- Nguyễn Thị Vân Hương: Khoa học tâm lý trong quản lý hành chính, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.79[6] Đơn cử: Mục tiêu cụ thể theo Đề án: a) Phấn đấu đến hết năm 2025:

50% cán bộ, công chức ở Trung ương (tập trung vào cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý từ cấp phòng và tương đương trở lên dưới 40 tuổi); 25% cán bộ, công chức cấp tỉnh, cấp huyện ở địa phương (tập trung vào cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý từ cấp phòng và tương đương trở lên dưới 40 tuổi) đạt trình độ ngoại ngữ bậc 4 trở lên theo hướng dẫn.

60% viên chức và 50% viên chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý đạt trình độ ngoại ngữ bậc 4 trở lên theo hướng dẫn.

20% cán bộ, công chức xã và 15% cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý cấp xã dưới 40 tuổi công tác tại địa bàn hoặc lĩnh vực có yêu cầu sử dụng ngoại ngữ đạt trình độ ngoại ngữ bậc 3 trở lên theo hướng dẫn.

[7] Theo Nguyễn Thị Vân Hương: Khoa học tâm lý trong quản lý hành chính, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.153

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com