Chủ quyền lãnh thổ quốc gia là gì?

1. Các quan điểm về chủ quyền quốc gia

a. Theo MALCOLM N. SHAW

“Luật pháp quốc tế được xây dựng dựa trên khái niệm quốc gia. Quốc gia lại được đặt trên nền tảng của chủ quyền, được thể hiện như quyền lực tối cao của các thiết chế nhà nước bên trong quốc gia đó và bên ngoài quốc gia đó thể hiện là quyền lực tối cao của quốc gia với tư cách một chủ thể pháp lý.”

b. Theo JAMES CRAWFORD

“Thuật ngữ ‘Chủ quyền’ có rất nhiều cách sử dụng. Theo nghĩa nguyên gốc thuật ngữ này chỉ đến quyền lực tối cao bên trong một quốc gia – thuộc về vấn đề của luật hiến pháp hơn là pháp luật quốc tế, và là vấn đề mà ở nhiều quốc gia không được xem là một vấn đề thực sự. Theo nguyên tắc phân chia quyền lực, không có bất kỳ thiết chế nào bên trong một quốc gia có quyền lực toàn bộ; quyền lực sẽ được phân chia, nhưng quốc gia vẫn được xem là có ‘chủ quyền’. Luật pháp quốc tế để vấn đề phân chi quyền lực trong nội bộ quốc gia cho từng quốc gia quyết định. Luật pháp quốc tế xem mỗi quốc gia như một thực thể có chủ quyền, theo nghĩa rằng quốc gia mặc nhiên có toàn bộ thẩm quyền để hoạt động không chỉ bên trong quốc gia mà còn ở phạm vi quốc tế, để ký kết (hoặc không ký kết) các điều ước quốc tế và các cam kết khác, để quan hệ (hoặc không quan hệ) với quốc gia khác bằng nhiều cách thức, để đồng ý (hoặc không đồng ý) giải quyết các tranh chấp quốc tế.”

c. PETER MALANCZUK

“Khi một luật sư quốc tế nói rằng quốc gia có chủ quyền thì họ chỉ có ý cho rằng quốc gia đó độc lập, và rằng quốc gia đó không phụ thuộc vào các quốc gia khác. Họ không có ý cho rằng quốc gia đó có thể theo bất kỳ cách thức nào đứng trên pháp luật. Sẽ tốt hơn nếu từ ‘chủ quyền’ được thay thế bằng từ ‘độc lập’. Trong chừng mực mà từ ‘chủ quyền’ có nghĩa vượt quá nghĩa ‘độc lập’ thì từ này không phải là một thuật ngữ pháp lý với một ý nghĩa cố định, mà thực chất là một thuật ngữ hoàn toàn mang tính cảm tính. Mọi người biết rằng các quốc gia rất hùng mạnh, nhưng việc quá tập trung vào chủ quyền đã khuyếch đại quyền lực của họ và khuyến khích họ lạm dụng nó…”

d. ANTONIO CASSESE

“Chủ quyền quốc gia không phải là không bị giới hạn. Rất nhiều quy định của luật pháp quốc tế đặt ra giới hạn đối với chủ quyền. Bên cạnh các quy định điều ước, khác nhau giữa các Quốc gia, các giới hạn còn được đặt ra với chủ quyền quốc gia từ các quy định tập cửa hàng. Chúng là hệ quả pháp lý tự nhiên của nghĩa vụ tôn trọng chủ quyền của các Quốc gia khác… Một Quốc gia có thể không được thực thi quyền lực chủa quyền của mình, hay can thiệp vào, các hoạt động được thực hiện hợp pháp bở Quốc gia khác trên lãnh thổ của chính mình. Sự bất lực pháp lý này bắt nguồn từ nguyên tắc chung áp đặt nghĩa vụ tôn trọng sự độc lập và danh dự của các Quốc gia khác (par in parem non habet imperium, nghĩa là, những người bình đẳng không có thẩm quyền với những người bình đẳng khác).”

e. Theo ROBERT BECKMAN và DAGMAR BUTTE

“Chủ quyền là quyền độc quyền thực thi quyền lực chính trị tối cao đối với một lãnh thổ xác định (vùng đất, không phận và một số khu vực biển nhất định như lãnh hải) và con người bên trong lãnh thổ đó. Không một Quốc gia khác nào có thể có quyền lực chính trị chính thức bên trong Quốc gia đó. Do đó, chủ quyền có liên quan chặt chẽ đến khái niệm độc lập chính trị.”

 

2. Chủ quyền lãnh thổ quốc gia

Quốc gia là thực thể pháp lí bao gồm ba yếu tố cấu thành: lãnh thổ, dân cư và quyền lực công cộng. Quốc gia là chủ thể căn bản nhất của luật quốc tế. Chủ quyền quốc gia là đặc trưng cơ bản, cần thiết nhất của quốc gia. Theo luật pháp quốc tế hiện đại, tất cả các quốc gia đều bình đẳng về chủ quyền.

Quốc gia có khi được dùng để chỉ một nước hay đất nước. Hai khái niệm đó có thể được dùng thay thế cho nhau.

Lãnh thổ quốc gia là phạm vi không gian được giới hạn bởi biên giới quốc gia, thuộc chủ quyền hoàn toàn và trọn vẹn của một quốc gia. Lãnh thổ quốc gia Việt Nam bao gồm : vùng đất quốc gia, vùng biển quốc gia (nội thuỷ và lãnh hải), vùng trời quốc gia, ngoài ra còn gồm lãnh thổ quốc gia đặc biệt.

Vùng đất quốc gia (kể cả các đảo và quần đảo) là phần mặt đất và lòng đất của đất liền (lục địa), của đảo, quần đảo thuộc chủ quyền một quốc gia ; bộ phận cần thiết nhất cấu thành nên lãnh thổ quốc gia, làm cơ sở để xác định vùng trời quốc gia, nội thuỷ, lãnh hải. Vùng đất quốc gia có thể gồm những lục địa ở những điểm khác nhau (tách rời nhau), nhưng các vùng đất đó đều thuộc lãnh thổ thống nhất của quốc gia ; hoặc cũng có thể chỉ bao gồm các đảo, quần đảo ở ngoài biển hợp thành quốc gia quần đảo. Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, ven biển Thái Bình Dương, có vùng đất quốc gia vừa là đất liền, vừa là đảo, vừa là quần đảo, bao gồm từ đỉnh Lũng Cú, Hà Giang đến mũi Cà Mau ; các đảo như Phú Quốc, Cái Lân… và quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

Việt Nam có ba mặt trông ra biển: Đông, Nam và Tây Nam, với bờ biển dài 3.260 km, từ Móng Cái đến Hà Tiên. Phần Biển Đông thuộc chủ quyền Việt Nam mở rộng về phía Đông và Đông Nam, có thềm lục địa, các đảo và quần đảo lớn nhỏ bao bọc. Riêng Vịnh Bắc Bộ đã tập trung một quần thể gần 3.000 hòn đảo trong khu vực Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long; các đảo Cát Hải, Cát Bà, Bạch Long Vĩ; xa hơn là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; phía Tây Nam và Nam có các nhóm đảo Côn Sơn, Phú Quốc và Thổ Chu.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com