Những khó khăn trong xây dựng văn hóa công sở

Xây dựng, hình thành văn hóa công vụ (VHCV) là nhiệm vụ thường xuyên, mang tính lâu dài của các cấp, các ngành từ Trung ương tới địa phương góp phần xây dựng Chính phủ kiến tạo, hành động và mang lại những lợi ích thiết thực cho người dân, tạo nền tảng để đẩy nhanh quá trình phát triển, hội nhập của đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Tuy nhiên, bên cạnh những điều kiện thuận lợi, việc xây dựng VHCV cũng đang đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là sự thiếu nhất cửa hàng trong nhận thức, hành động của không ít cán bộ, công chức trong bộ máy công quyền.

1. Những thách thức đặt ra

Một là, thực trạng nhận thức của đội ngũ CBCC về VHCV, về trách nhiệm xây dựng nền hành chính công vụ chưa đồng đều, thiếu nhất cửa hàng, thậm chí một số CBCC chậm đổi mới tư duy, hành động, không muốn thay đổi, muốn giữ nguyên tình trạng hiện có để dễ bề thao túng, điều hành đơn vị, đơn vị theo ý muốn chủ quan cá nhân, tạo những độ vênh nhất định với tình trạng “trên nóng dưới lạnh” khi triển khai chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.

Nhiều CBCC chưa cập nhật trọn vẹn kiến thức về hành chính công vụ, chưa ý thức được trách nhiệm, vị trí việc làm của cá nhân khi được tuyển dụng, coi Nhà nước, công sở là nơi trú thân an toàn để hưởng lương và biên chế suốt đời, rơi vào tâm lý an phận thủ thường, tạo sức ỳ nhất định cho đơn vị, đơn vị, ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết công việc.  Ở một số nơi, việc tuyển dụng, thi tuyển còn mang nặng tính cách thức, nảy sinh tiêu cực,  để  những người có phẩm chất đạo đức kém, năng lực chuyên môn thấp, hám danh cán bộ, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng.

Do quá tập trung vào quyền lực và lợi ích vật chất nên nhiều cán bộ, công chức đã xa rời tôn chỉ, mục đích của đơn vị công quyền là “đầy tớ” của nhân dân,  được nhân dân giao, trao quyền để phục vụ và quản lý đời sống xã hội. . Căn bệnh “quan liêu cách mạng” dẫn đến một số cán bộ có thái độ cửa quyền, khinh dân, thiếu tinh thần trách nhiệm, tự cho mình có quyền ban ơn, tạo ra cơ chế “xin-cho”, gây ra những vấn đề . gây phiền hà cho người dân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng công việc và diện mạo của bộ máy hành chính công.

Thứ hai, cơ chế, việc xây dựng hành lang pháp lý, tổ chức bộ máy còn nhiều bất cập, vướng mắc. Bộ máy hành chính nặng nề, bộ máy công chức  đông đảo nhưng chăm lo cho người nghèo hiệu quả  không chỉ tạo gánh nặng cho ngân sách quốc gia mà còn tạo ra mâu thuẫn lợi ích, tranh giành nhóm lợi ích, đấu đá, tranh giành quyền lực, gây mất đoàn kết nội bộ, tạo  hệ lụy xấu ảnh hưởng đến xã hội. uy tín, danh dự của đơn vị, tổ chức. Thống kê cho thấy, dân số Việt Nam hiện là 93 triệu người nhưng phải nuôi sống 2,8 triệu cán bộ, công chức, chưa kể số người hưởng lương hưu, viên chức và người nghỉ hưu  hưởng lương từ ngân sách nhà nước là khoảng 7,5 triệu người. Tổng số người hưởng tiền lương, tiền công từ ngân sách là 11 triệu người, bằng 11,5% dân số(1). Nếu so sánh tỷ lệ công chức trên dân số  thì “Việt Nam đứng đầu trong  nhóm các nước ASEAN, với 4,8% công chức trên dân số (tương đương  20 người  sẽ có 1 công chức – viên chức hưởng lương). .), nhỉnh hơn Thái Lan, Nhật Bản và vượt xa các nước khác” (2) một hôm: “Trong bộ máy của chúng ta có đến 30%  công chức không có, vì công tác theo kiểu  cắp ô đi và làm tối chúng. vào ban đêm. bị đánh cắp, không mang lại bất kỳ hiệu quả nào cho công việc.” Thực trạng này tạo ra bầu không khí tiêu cực, không tạo  động lực, niềm tin để cán bộ, công chức phấn đấu, cống hiến, làm cho người tài thui chột ý chí, việc xây dựng văn hóa, văn hóa gặp nhiều trở ngại.

Ba là, tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức chính trị của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong các đơn vị Đảng, Nhà nước có diễn biến phức tạp với những biểu hiện đi ngược lại lợi ích dân tộc, tham nhũng, làm thất thoát ngân sách quốc gia, vi phạm pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội; có lối sống xa hoa, xa rời quần chúng nhân dân, vi phạm nghiêm trọng kỷ luật Đảng; độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ, câu kết với các phần tử, nhóm lợi ích ở bên ngoài, tạo bình phong và sân sau để chi phối và thao túng đơn vị nhà nước. Trước thực trạng đó, Đảng đã ban hành nhiều Nghị quyết cần thiết, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII về xây dựng chỉnh đốn Đảng, trong đó nhấn mạnh: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”(3). Nhiều vụ việc liên quan đến một số đồng chí giữ các chức vụ cần thiết trong bộ máy của Đảng, Nhà nước bị xử lý thời gian qua cho thấy khâu kiểm soát quyền lực, giám sát và thực thi công vụ của nhiều đơn vị chưa được thực hiện một cách chặt chẽ, nghiêm minh. Tại Hội nghị cán bộ toàn quốc học tập, cửa hàng triệt, triển khai thực hiện các nội dung Hội nghị Trung ương 8 khóa XII của Đảng, đồng chí Phạm Minh Chính – Trưởng Ban Tổ chức Trung ương đã đưa ra con số: “Chỉ trong trong 2 năm gần đây, cấp ủy và Ủy ban kiểm tra các cấp đã kỷ luật hơn 490 tổ chức đảng và hàng ngàn đảng viên vi phạm, trong đó có một số đảng viên bị thi hành kỷ luật do tham nhũng và cố ý làm trái. Tính đến nay, đã có 59 cán bộ thuộc Trung ương quản lý đã bị xử lý, kỷ luật trong đó có 13 Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương và có 1 Ủy viên Bộ Chính trị”(4). Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 9 Khóa XII, ngày 26 tháng 12 năm 2018, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết: “Từ đầu nhiệm kỳ  XII đến nay, trong vòng chưa đầy 3 năm, hơn 60 cán bộ bộ máy trực thuộc Lãnh đạo Trung ương  bị  kỷ luật với số lượng lớn chưa từng có, trong đó có 4  Ủy viên Trung ương Đảng đương chức và 3 đồng chí  đã bị cách chức Trung ương. “. Những con số, vụ việc trên phản ánh những yếu kém trong quá trình tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu về đạo đức, phẩm chất, năng lực của một số cán bộ, đảng viên giữ cương vị cao trong các đơn vị  Đảng. Họ không vượt qua được những tác động, cám dỗ của đồng tiền, danh lợi. địa vị, vụ lợi, tự tha hóa, biến chất, làm tổn hại đến lợi ích quốc gia dân tộc và làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào chính quyền, chính quyền và tổ chức đảng.

Ở nhiều đơn vị công quyền khác, tình trạng lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham nhũng, đặc biệt là hối lộ vặt, tống tiền gây khó dễ cho người dân, trục lợi với những biểu hiện tinh vi,  diễn ra thường xuyên, khó kiểm soát, gây bất bình trong dư luận. Đây là vấn đề nhức nhối dẫn đến hệ lụy xấu, tạo  hình ảnh xấu xí về đơn vị uỷ quyền cho quyền lợi, tiếng nói của nhân dân, làm mất đi sự hình thành,  hình tượng của văn hóa, văn học trong một quá trình lâu dài  gian khổ. Thứ tư, do đặc thù của xã hội nông nghiệp truyền thống, phong tục, tập cửa hàng,  tâm lý tiểu nông, làng xã  chưa  thay đổi nhiều trong tư duy, hành động của nhiều cán bộ. Thói độc đoán, mạnh ai nấy làm; Tâm lý bình đẳng, nể nang, trọng tuổi, coi trọng kinh nghiệm vẫn chiếm ưu thế trong  thực thi công vụ. Tình trạng thông đồng, cục bộ, lơ là việc công, hết việc, rảnh rỗi là điều không khó nhận thấy ở nhiều cán bộ. Đặc biệt, mô hình quản lý, điều hành công sở theo kiểu “quan làm chức, quan  được hỏi”, “con vua  làm vua”… vẫn đang chi phối mạnh mẽ nền hành chính công  ở nhiều nơi.đơn vị hiện nay. Thêm vào đó, những ảnh hưởng, tác động của cuộc sống hiện đại với nhịp sống gấp gáp, áp lực về tài chính khiến nhiều cán bộ phải làm thêm, làm kinh tế, thậm chí  làm những việc phi pháp. Sự phát triển, bùng nổ của internet, mạng xã hội mang lại nhiều tiện ích nhưng kéo theo đó là những luồng tư tưởng cực đoan, những ấn phẩm kém cỏi được đăng tải hàng ngày, hàng giờ trên thế giới ảo. hành động của một số cán bộ công chức.

 2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả văn hóa công vụ

Để xây dựng thành công mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, việc xây dựng XHDS có ý nghĩa hết sức cần thiết, bởi văn hóa là nền tảng tinh thần, là nền tảng cần thiết để công chức thực hiện tốt nhiệm vụ, trách nhiệm trước công tổ chức, cộng đồng và xã hội. Để triển khai thành công VHCV trong các đơn vị hành chính, trước mắt cần đặt ra một số giải pháp nhất định, như:

Thứ nhất, sự nhận thức của các cấp, các ngành và của mỗi cán bộ công chức về sự cần thiết, cấp bách của việc xây dựng VHDN, trong đó cần cụ thể hóa Đề án xây dựng VHDN mà Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành thành các chương. với  cách cư xử sáng tạo tốt. Bước đầu tập trung thí điểm một số mô hình điển hình trong  đơn vị hành chính, qua đó tổng kết, rút ​​kinh nghiệm, nhân rộng và phổ biến, áp dụng rộng rãi trong toàn hệ thống, tạo  sự thống nhất, đồng thuận. và sự hài lòng của cá nhân và doanh nghiệp như một thước đo của sự phát triển. Trong môi trường hiện nay, mỗi cán bộ công chức phải nhận thức rõ  sứ mệnh và trách nhiệm của mình đối với công việc mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, tác phong  sáng tạo, thường xuyên cập nhật kiến ​​thức, kinh nghiệm  quản lý điều hành nhằm mang lại những giá trị tốt đẹp cho cộng đồng, xây dựng hình ảnh, uy tín của đơn vị, đơn vị.

Thứ hai, nền tảng văn hóa Việt Nam bảo vệ tinh thần tự giác, gương mẫu,  đồng thuận, đoàn kết, tương trợ nên việc xây dựng văn hóa công dân cần sự vào cuộc mạnh mẽ, quyết liệt từ Trung ương đến địa phương, trong đó người đứng đầu là cấp ủy, chính quyền. đơn vị, đơn vị giữ vai trò cần thiết,  quyết định. Bằng trí tuệ, kinh nghiệm, khát vọng và lý tưởng cống hiến, người lãnh đạo phải tạo ra  hệ thống giá trị và niềm tin; xây dựng tôn chỉ, mục tiêu hành động của đơn vị, từ đó tập hợp được sức mạnh và sự ủng hộ của đội ngũ cán bộ. Tầm nhìn của đội ngũ lãnh đạo thể hiện qua việc tuyển dụng, bố trí, sắp xếp CBCC phù hợp với năng lực, sở trường công tác; tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, phẩm chất của đội ngũ cán bộ; siết chặt kỷ cương, kỷ luật; giám sát tốt việc làm, hành động của CBCC; khen thưởng và xử lý kỷ luật kịp thời, nghiêm minh, tạo sự khách quan, công bằng với môi trường công tác dân chủ, minh bạch, liêm chính… Thông qua đó, những giá trị của VHCV sẽ được sản sinh, tạo động lực để công tác và cống hiến.

Thứ ba, trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, việc xây dựng VHCV vừa phải bảo đảm các quy chuẩn của nền hành chính chung trên thế giới, đồng thời cần gìn giữ, phát huy những nét đẹp trong văn hóa truyền thống với những đặc thù riêng về thể chế, chính sách của mỗi quốc gia. Trong giai đoạn hiện nay, để xây dựng VHCV, mỗi CBCC cần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, nội quy, quy chế của đơn vị, nhất là Luật Cán bộ, Công chức năm 2008; Luật Viên chức năm 2010; Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg ngày 2-8-2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế văn hóa công sở tại các đơn vị hành chính nhà nước; Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 8-11-2011 của Chính phủ về Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020.

Thứ tư, văn hóa công vụ thể hiện trực tiếp qua hành vi ứng xử, chuẩn mực giao tiếp giữa CBCC với cấp trên, cấp dưới, với đồng nghiệp, giữa CBCC với các đơn vị, đoàn thể khác, đặc biệt là mối quan hệ, ứng xử với nhân dân, cần giữ thái độ tôn trọng, tinh thần lịch thiệp, ứng xử văn minh, tận tâm phục vụ với nguyên tắc thực hành thường xuyên “4 xin, 4 luôn”: Kính chào, xin lỗi, xin cảm ơn, xin phép; luôn mỉm cười, luôn nhẹ nhàng, luôn lắng nghe, luôn giúp đỡ. Để giảm gánh nặng công việc và sức ép về thời gian, thủ tục hành chính, các đơn vị cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng mô hình chính quyền, đô thị thông minh, cải cách thủ tục hành chính, tận dụng tối đa những tiện ích của internet, mạng xã hội trong việc thu thập, xử lý và phản hồi thông tin hành chính đến với người dân.

Thứ năm, văn hóa công vụ không chỉ thể hiện qua tôn chỉ, mục tiêu chính sách và hệ giá trị mà còn thể hiện qua các yếu tố bên ngoài như cách thức tổ chức của công sở; cách bố trí, sắp xếp các phòng ban khoa học,  chỉ dẫn rõ ràng; thông qua trang phục, cách đeo CMND công vụ; thông qua cảnh quan, kiến ​​trúc thẩm mỹ của các đơn vị công cộng. Vì vậy, việc xây dựng văn hóa văn nghệ cần chăm lo chuẩn hóa cả  yếu tố cách thức bên ngoài phù hợp với chuẩn mực và  thuần phong mỹ tục, luôn thể hiện thái độ, tinh thần tôn trọng con người  và cộng đồng, tạo mỹ quan nơi công cộng, đem lại sự thân thiện và sự thân thiện. sự gần gũi với mọi người.

Thứ sáu, để xây dựng nền hành chính  phục vụ nhân dân, mỗi cán bộ, công chức cần ra sức học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, những lời  dạy của Người về công tác cán bộ và tinh thần tận tụy. . Cán bộ là người làm công, người đày tớ trung thành và quân đội của nhân dân, vì lợi ích  của  nhân dân mà phục vụ nhân dân. Cán bộ, công chức phải luôn rèn luyện tinh thần gương mẫu, xác định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm của mình, thường xuyên phê bình và tự phê bình với tinh thần dân chủ, lắng nghe tiếng nói, nguyện vọng chính đáng của  nhân dân và hướng dẫn nhân dân đi đúng hướng. .lấy nhân dân phục vụ, tạo sự đoàn kết nhất trí để xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh.  Phát triển trong bối cảnh mới với những diễn biến phức tạp của tình hình bên trong và bên ngoài, nền hành chính nhà nước cũng phải có biện pháp tự chuyển đổi, khắc phục những tồn tại, hạn chế, đồng thời không ngừng phấn đấu tiếp thu tinh hoa văn hóa và kinh nghiệm trong hoạt động của mình. hệ thống hành chính của các nước tiên tiến. Xây dựng văn hóa công vụ là điều kiện tiên quyết với đội ngũ cán bộ công chức có bản lĩnh, kinh nghiệm, năng lực chuyên môn cao, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt sẽ tạo ra những giá trị lâu bền như tinh thần dân chủ, thượng tôn pháp luật, tôn trọng nhân  dân , phục vụ nhân dân liêm chính, kỷ cương, khách quan, công bằng, nhân văn, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, đem lại cuộc sống ấm no, đủ đầy,  hạnh phúc cho mọi người dân.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com