Phân tích giá trị nghệ thuật thể phú qua Phú sông Bạch Đằng

Nhằm giúp các bạn học sinh có nhiều kiến thức và nắm vững nội dung bài học, bài viết dưới đây chúng minh gửi đến bạn đọc bài viết  Phân tích giá trị nghệ thuật thể phú qua Phú sông Bạch Đằng. Cùng tham khảo nhé.

1. Dàn ý Phân tích giá trị nghệ thuật thể phú qua Phú sông Bạch Đằng:

1.1. Mở bài:

Giới thiệu về khái niệm ngữ liệu: Là thể loại văn học cổ của Trung Quốc du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, đến thời Trần thì phổ biến.

Thước đo vị trí của tác phẩm: Bạch Đằng giang phú là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam

1.2. Thân bài:

*. Đặc điểm kỹ thuật của thân giàu.

Là một bài thơ có vần điệu hoặc là sự pha trộn giữa vần điệu và văn xuôi

Dùng để tả cảnh vật, phong tục, sự việc, chuyện đời thường.

Bố cục gồm bốn đoạn: mở đoạn, đoạn thuyết minh, đoạn bình luận, và kết bài.

Phù Cô Cẩn: Không cần đối, cuối bài kết bằng thơ.

*. Những biểu hiện giá trị nghệ thuật của bài phú qua tác phẩm “Bạch Đằng giang phú.

a. Cấu tứ, bố cục:

– Về kết cấu tứ: Đơn giản, chặt chẽ theo lối kể chủ – khách điển hình của thể loại phú.

Ban đầu, lời kể của tác giả nhằm dẫn dắt ta theo hành trình của du khách và cuối cùng dừng lại ở sông Bạch Đằng, khách kể về những gì họ quan sát được và suy nghĩ về dòng sông.

Tại đây khách gặp các bô lão, được các bô lão kể về chiến công hiển hách trên sông Bạch Đằng năm xưa.

Hai bên trò chuyện và bình luận về những chiến thắng.

– Bố cục mang tính tượng trưng của quân bài cổ, gồm 4 phần:

Mở đầu: Cảm nghĩ của nhân vật khách trước sông Bạch Đằng

Giải thích: Những chiến công hiển hiện trên sông Bạch Đằng qua lời kể của các bô lão.

Bình luận: Nhận xét, đánh giá của cha ông ta về chiến công

Kết bài: Những suy ngẫm về sự đi lên của đất nước.

b. Dạng câu:

– Có sự đan xen đa dạng, linh hoạt giữa lời người kể, lời khách và lời kể của các bô lão. Có lúc nó xen kẽ linh hoạt, có lúc đan xen lời nhân vật.

– Sử dụng câu văn đa dạng, sinh động xen lẫn văn vần, văn xuôi.

+ Những câu thơ

“Cửu Giang Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt/ Người đi đâu biết về đâu”.

“Qua cửa Đại Thần, đối bến Đông Triều/ Qua sông Bạch Đằng thuyền một chiều xuôi”….

+ Những câu văn xuôi: “Đây là chiến trường buổi trưa Trùng Hưng Nhị Thành bắt Ô Mã/ Cũng là đất năm xưa Ngô Tiến Thám Hoàng Cao”….

– Sử dụng các câu ngắn khác nhau

– Sử dụng ngẫu hứng các dòng văn hóa, tạo lối nói tượng hình

“Bờ sậy gần, bến đò hiu quạnh/Dòng sông ngập thầy, gò,…

– Cuối phú là một bài thơ, tiêu biểu cho biểu tượng phú quý.

c. Ngôn ngữ:

Ngôn ngữ tự nhiên không khoa trương, khuôn sáo mà rất sinh động.

Khách miêu tả sông Bạch Đằng không phải bằng ngôn ngữ khuôn sáo mà bằng những hình ảnh cụ thể, sinh động để nói về những đường nét cụ thể của dòng sông: hùng vĩ, thơ mộng mà cô quạnh, hoang vu và lạnh lẽo.

Các bô lão kể về chiến công nhưng không mắc vào ngôn ngữ đao to búa lớn mà vẫn thể hiện được chiến công oai hùng, hiển hách.

– Ngôn ngữ trang trọng, gợi sự trang trọng

D. Xây dựng những hình tượng nghệ thuật đặc sắc.

Hình ảnh sông Bạch Đằng vừa là vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo hóa, vừa là chứng nhân của lịch sử.

Hình tượng “khách”: Khách trong thân phận phú thường rập khuôn, cứng nhắc, nhưng qua cách xây dựng của Trương Hán Siêu, hình tượng khách hiện lên đa dạng, sinh động, tự tại và đẹp đẽ. ước mơ hào hùng về sông núi, ngậm ngùi tiếc thương trước cảnh hoang tàn đổ nát, tự hào về những chiến công lịch sử, yêu thiên nhiên, yêu đất nước.

Hình ảnh người lớn tuổi: Tôn trọng, mến khách, yêu quý và vô cùng tự hào về những chiến công của dân tộc, biết đánh giá, nhìn nhận đúng sai về lịch sử

1.3. Kết bài:

Đọc lại những giá trị nghệ thuật của bài phú qua tác phẩm Phú sông Bạch Đằng.

Chống định vị tác phẩm: Sau Phú sông Bạch Đằng còn có nhiều tác phẩm khác viết bằng thể phú, nhưng chưa tác phẩm nào vượt qua được bài phú của Trương Hán Siêu.

Xem thêm: Thuyết minh Bạch Đằng giang phú (Phú sông Bạch Đằng)

2. Phân tích giá trị nghệ thuật thể phú qua Phú sông Bạch Đằng hay nhất:

Chế Lan Viên đã từng viết: Trăm sông muốn thành Bạch Đằng, để nhấn mạnh sự khẳng định ý nghĩa giá trị của sông Bạch Đằng với lịch sử dân tộc. Sông Bạch Đằng đã khơi nguồn cảm hứng cho biết bao thế hệ thi nhân như Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân… và không thể không nhắc đến Trương Hán Siêu với Bạch Đằng giang phú – tác phẩm nghệ thuật mẫu mực của người nghệ sĩ. sự phong phú.

Nét độc đáo về nghệ thuật thứ nhất là Bài phú sông Bạch Đằng được làm theo thể vọng cổ, làn điệu này thường có kết cấu đối đáp chủ – khách làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn, sinh động. Nhân vật khách có thể là bản sao của chính tác giả và nhân vật tập thể là bô lão địa phương sống bên bờ sông Bạch Đằng mà nhân vật khách gặp ở hậu cảnh, nhưng điều này cũng có thể hiểu được. chỉ là hư cấu, là những suy nghĩ tình cảm của tác giả được thể hiện như một nhân vật lưu trữ. Bởi vậy, dưới hình thức đối thoại giữa quan khách và các bô lão địa phương, tấm thiệp đã nói lên được những cảm xúc nhức nhối, những chiêm nghiệm, suy nghĩ về đất nước, dân tộc.

Phần nổi bật là hình tượng nhân vật khách với tư thế ung dung, tự tại, mang hoài bão lớn:

Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.

Nhân vật chính của tác giả là chu du sông núi bốn phương nên những hàng hoa, địa danh trong và ngoài nước đã được tác giả liệt kê: Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt… Đặc biệt là cảnh sông Bạch Đằng khiến nhân vật khách ngậm ngùi, tiếc nuối, đứng lặng hồi lâu trong suy tư. Trong bối cảnh đó, các bô lão xuất hiện với thái độ nhiệt tình, mến khách, kể cho khách nghe bao trận oanh liệt, hào hùng trên sông Bạch Đằng: Đây nơi Trung Hưng II đại thánh bắt Ô Mã/ Cũng ngày xưa chân đất, năm xưa , Ngô Hiệp Phát Hoàng Thao, với khí thế anh dũng, quật khởi của quân dân ta, trận chiến diễn ra hết sức cam go, quyết liệt nhưng cuối cùng chiến thắng đã thuộc về chính nghĩa, gian ác không còn đường lui. , dấu vết giết chóc sẽ còn mãi: Đến hôm nay nước sông chảy không ngừng/ Nhưng giết giặc không thể gột rửa. Tác phẩm cuối cùng là lời khẳng định vai trò to lớn của nhân dân đối với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Đặc biệt, hai câu cuối của tác phẩm: Địch thủ Tân Tân an/ Bầy đất lang thang có đức cao, khách và kẻ được các bô lão tranh luận và khẳng định chân lý giữa thổ thần và nhân tài. Con người là quan trọng nhất. Câu thơ kết bài vừa đề cao vai trò, vị trí của con người, vừa mang niềm tự hào dân tộc, vừa thể hiện tư tưởng nhân văn cao cả. Với lối phiêu cổ, giao lưu với khách và các bậc cao niên, Trương Hán Siêu đã làm cho sự phong phú của mình thêm sinh động, hấp dẫn, làm cho cái nhìn về lịch sử sông Bạch Đằng bao quát hơn, khách quan hơn. sự phản chiếu của các đối tượng chủ và khách.

Không những thế, ngôn từ và hình ảnh trong phú thường khoa trương, tráng lệ, mê hoặc lòng người. Vẻ đẹp hùng vĩ đó trước hết được thể hiện ở vẻ đẹp hùng vĩ nhưng cũng rất thơ mộng của dòng sông: Sóng mênh mông bay lượn/ Mặt nước mênh mang một màu/ Nước trời: một màu, cảnh vật: ba thu . Không gian vô cùng rộng lớn, từng lớp từng lớp sóng xô vào bờ, nhưng không gian ấy cũng thật mộng mơ với sự chuyển mình nhẹ nhàng, mềm mại của đuôi chim trĩ. Trĩ ở đây có thể hiểu là: hình ảnh những con thuyền nối đuôi nhau trên sông như những chiếc đuôi trĩ lạnh lẽo. Không rộng lớn, trời – nước – đất như hòa chung một màu nên càng thơ mộng, mê hồn. Ngoài ra, Trương Hán Siêu còn sử dụng những hình ảnh hào hùng, tráng lệ để miêu tả trận thủy chiến vĩ đại trên sông Bạch Đằng, tác giả đã sử dụng bút pháp khoa trương để xây dựng những hình ảnh hào hùng, hùng tráng: Đoàn thuyền năm nào, khí thế hiên ngang/ Hùng hổ sáu quân, giáo mác được chôn cất vào buổi sáng; Ánh trăng phải mờ/ Đất trời sắp chuyển mình, hình ảnh thơ tuyệt vời, mang tầm nhìn bao quát vũ trụ. Hơn nữa, những hình ảnh này còn được đặt ở những vị trí đối lập: mặt trời và mặt trăng / mờ mịt, trời đất / thay đổi, báo hiệu sự gian khổ, quyết tâm, thử thách. Nhưng cuối cùng chính nghĩa đã chiến thắng vẻ vang, còn quân thù giết mãi không rửa sạch.

Ngoài ra, không thể không kể đến sự đóng góp của giọng điệu, nhịp điệu vào thành công của tác phẩm. Bài văn sử dụng thể văn xuôi với các câu văn dài ngắn đan xen vô cùng linh hoạt khiến bài văn trở nên có nhịp điệu, nhịp điệu trở nên linh hoạt hơn. Ở phần mở đầu của tác phẩm, nhịp thơ nhanh nhưng vẫn rất nhịp nhàng, vừa miêu tả khí thế hào hùng bốn phương của khách khi ngao du bốn phương nhưng đồng thời cũng thấy được vẻ đẹp thơ mộng của thi nhân. bối cảnh. Nhưng ngay sau đó, giọng thơ trầm xuống, nhịp thơ chậm lại đứng lặng hồi lâu trước cảnh: Sông chìm thương, má, cạn/ Buồn vì cảnh bi đát, đứng lặng cho đã lâu / Thương tiếc anh hùng nay còn đâu Xin thay dấu vết còn lại. Với những pha chiến thuật thả hồn kỳ công của dân tộc, bộ áo vẫn lột tả được đầy đủ không khí chiến trận sôi nổi: Trăng tàn sao phải mờ/ Trời đất sắp đổi thay. Ở đây, lời ca không còn nhịp nhàng như bài mà trên đó có sự đan xen của các câu dài ngắn khác nhau thể hiện không khí hào hùng, căng thẳng của trận đấu, đồng thời thể hiện trạng thái của tác giả. Đoạn kết, giọng trở nên trầm hùng, sâu sắc, bình luận về ba nguyên nhân làm nên thắng lợi của dân tộc: địa lợi – hiểm nguy; Nhân hòa – tài năng giữa cuộc điện thoại; trời – được trời ban cho và nhấn mạnh đến yếu tố con người để tạo nên thắng lợi của cuộc chiến.

Phú sông Bạch Đằng là bài thơ có kết cấu giản dị nhưng vô cùng hấp dẫn, bố cục chặt chẽ, lối hành văn linh hoạt khi hào hùng, sảng khoái khi trầm lắng, tha thiết. Ngôn ngữ sử dụng linh hoạt, hình ảnh hào hùng, hào hùng nhưng cũng vô cùng trầm lắng, gợi cảm. Yếu tố kỹ xảo kết hợp với nội dung đã tạo nên thành công của tác phẩm.

Xem thêm: Phân tích bài Bạch Đằng giang phú (Phú sông Bạch Đằng)

3. Phân tích giá trị nghệ thuật thể phú qua Phú sông Bạch Đằng ý nghĩa nhất:

Nét độc đáo về nghệ thuật thứ nhất là Bài phú sông Bạch Đằng được làm theo thể vọng cổ, làn điệu này thường có kết cấu đối đáp chủ – khách làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn, sinh động. Nhân vật khách có thể là bản sao của chính tác giả và nhân vật tập thể là bô lão địa phương sống bên bờ sông Bạch Đằng mà nhân vật khách gặp ở hậu cảnh, nhưng điều này cũng có thể hiểu được. chỉ là hư cấu, là những suy nghĩ tình cảm của tác giả được thể hiện như một nhân vật lưu trữ. Bởi vậy, dưới hình thức đối thoại giữa quan khách và các bô lão địa phương, tấm thiệp đã nói lên được những cảm xúc nhức nhối, những chiêm nghiệm, suy nghĩ về đất nước, dân tộc.

Qua bài viết này, Trương Hán Siêu ca ngợi sông Bạch Đằng hùng vĩ, dòng sông lịch sử đã gắn liền với tên tuổi của biết bao anh hùng, với những chiến công hiển hách của nhân dân ta trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm. Nhà thơ khẳng định: Sông núi hiểm trở, nhiều bậc hiền tài đã làm nên truyền thống anh hùng.

Trương Hán Siêu miêu tả sông Bạch Đằng với những đường nét, màu sắc gợi cảm. Những ẩn dụ, liên tưởng mới về dòng sông lịch sử vĩ đại anh hùng được gợi tả qua những cặp câu đối, câu tứ tuyệt đẹp. Nhiều năm sau chiến thắng vĩ đại trên sông Bạch Đằng (1288), nhà thơ đã đến thăm dòng sông này và cảm thấy xúc động.

Ngoài ra, không thể không kể đến sự đóng góp của giọng điệu, nhịp điệu vào thành công của tác phẩm. Bài văn sử dụng thể văn xuôi với các câu văn dài ngắn đan xen vô cùng linh hoạt khiến bài văn trở nên có nhịp điệu, nhịp điệu trở nên linh hoạt hơn. Ở phần mở đầu của tác phẩm, nhịp thơ nhanh nhưng vẫn rất nhịp nhàng, vừa miêu tả khí thế hào hùng bốn phương của khách khi ngao du bốn phương nhưng đồng thời cũng thấy được vẻ đẹp thơ mộng của thi nhân. bối cảnh. Nhưng ngay sau đó, giọng thơ trầm xuống, nhịp thơ chậm lại đứng lặng hồi lâu trước cảnh: Sông chìm thương, má, cạn/ Buồn vì cảnh bi đát, đứng lặng cho đã lâu / Thương tiếc anh hùng nay còn đâu Xin thay dấu vết còn lại. Với những pha chiến thuật thả hồn kỳ công của dân tộc, bộ áo vẫn lột tả được đầy đủ không khí chiến trận sôi nổi: Trăng tàn sao phải mờ/ Trời đất sắp đổi thay.

Ở đây, lời ca không còn nhịp nhàng như bài mà trên đó có sự đan xen của các câu dài ngắn khác nhau thể hiện không khí hào hùng, căng thẳng của trận đấu, đồng thời thể hiện trạng thái của tác giả. Đoạn kết, giọng điệu trở nên thâm trầm, sâu sắc, bình luận ba nguyên nhân làm nên thắng lợi của dân tộc: địa lợi – hiểm trở; Nhân hòa – tài năng giữa cuộc điện thoại; trời – được trời ban cho và nhấn mạnh đến yếu tố con người để tạo nên thắng lợi của cuộc chiến.

Trương Hán Siêu là người có học, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều và có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông. Các tác phẩm của ông thường bộc lộ tình yêu quê hương đất nước và lòng tự hào dân tộc. “Phú sông Bạch Đằng” là một tác phẩm như thế.

Xem thêm: Phân tích đoạn 3 Phú sông Bạch đằng kèm dàn ý hay nhất

Theo dõi chúng tôi trênDuong Gia FacebookDuong Gia FacebookDuong Gia TiktokDuong Gia TiktokDuong Gia YoutubeDuong Gia YoutubeDuong Gia GoogleDuong Gia Google
5/5(1
bình chọn
)

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com