Tội phạm do một người thực hiện; cũng có thể do nhiều người thực hiện. Khi tội phạm được thực hiện bởi nhiều người cùng hành động có sự liên hệ mật thiết; tác động lẫn nhau thì trường hợp đó được gọi là đồng phạm. Đồng phạm là cách thức phạm tội đặc biệt; đòi hỏi những điều kiện riêng khác với những trường hợp phạm tội riêng lẻ. Vậy, trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 quy định thế nào về trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm?
Hãy cùng LVN Group tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này nhé!
Văn bản quy định
- Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi 2017
Nội dung tư vấn
Khái niệm
Theo quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015
- Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
- Phạm tội có tổ chức là cách thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.
- Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.
- Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành.
Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm trong trường hợp đồng phạm hoàn thành
- Nguyên tắc những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm; trên cơ sở hành vi tham gia thực hiện của mỗi người. Tất cả những người đồng phạm không kể tham gia thực hiện tội phạm với vai trò gì đều phải bị truy tố cùng một tội danh; cùng một điều luật cùng trong phạm vi hình phạt của điều luật ấy quy định.
- Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự của từng người trong đồng phạm. Mỗi người đồng phạm là những cá nhân xác định với ý chí cùng hành vi độc lập; cho nên, trách nhiệm hình sự của ừng cá nhân trong đồng phạm sẽ được xem xét một cách tương đối độc lập; dựa trên cơ sở hành vi của từng người.
- Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm. Căn cứ tính chất cùng mức độ tham gia tội phạm của từng người đồng phạm để xác định trách nhiệm gánh chịu.
Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm trong trường hợp đồng phạm chưa hoàn thành
Trách nhiệm hình sự đối với người thực hành
- Giai đoạn chuẩn bị phạm tội của người thực hành. Trường hợp đồng phạm chỉ có một người thực hành duy nhất thì hành vi chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm; sửa soạn công cụ, phương tiện phạm tội; hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm chung.
- Giai đoạn phạm tội chưa đạt của người thực hành. Giai đoạn này, người thực hành đã thực hiện hành vi được mô tả trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm; nhưng đã không thục hiện được đến cùng do nguyên nhân ngoài ý muốn của họ.
Trách nhiệm hình sự của người tổ chức
- Giai đoạn chuẩn bị phạm tội của người tổ chức. Đây là giai đoạn người tổ chức có những hành vi tạo điều kiện cần thiết cho việc thành lập nhóm tội phạm; hoặc điều khiển nhóm tội phạm thực hiện tội phạm cụ thể.
- Giai đoạn phạm tội chưa đạt của người tổ chức. Để xác định trách nhiệm hình sự của người tổ chức trong giai đoạn này; cần căn cứ cùngo điều luật quy định tội phạm cụ thể mà người tổ chức đã thực hiện; điều luật về tổ chức thực hiện tội phạm cùng điều luật về phạm tội chưa đạt.
Trách nhiệm hình sự của người xúi giục
- Giai đoạn chuẩn bị tội phạm. Đây là giai đoạn người xúi giục có hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện sự xúi giục người khác thực hiện tội phạm.
- Giai đoạn xúi giục chưa đạt. Là giai đoạn người xúi giục thực hiện hành vi kích động mua chuộc, đe dọa…. nhưng do nguyên nhân ngoài ý muốn của người xúi giục; nên đã chưa đưa đến việc thực hiện hành vi phạm tội của người bị xúi giục.
Trách nhiệm hình sự của người giúp sức
- Giai đoạn chuẩn bị của người giúp sức. Đây là giai đoạn người giúp sức tạo những điều kiện cần thiết cho việc giúp sức; để người khác thực hiện tội phạm thuận lợi, dễ dàng.
- Giai đoạn giúp sức chưa đạt: việc xác định trách nhiệm hình sự của người giúp sức trong trường hợp này; phải căn cứ cùngo điều luật mà người giúp sức phạm tội; điều luật quy định về phạm tội chưa đạt.
Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
- Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người thực hành. Người thực hành tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội sẽ được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; quy định tại điều 16 BLHS 2015.
- Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người tổ chức. Căn cứ cùngo hành động tích cực; ngăn chặn việc thực hiện tội phạm của những người đồng phạm khác để xác định miễn trách nhiệm hình sự ; hoặc là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
- Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người xúi giục. Dựa cùngo hành vi tích cực ngăn chặn không để tội phạm hoàn thành; đơn vị có thẩm quyền căn cứ cùngo đó làm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
- Tự ý nửa chứng chấm dứt việc phạm tội của người giúp sức. Để được công nhận là tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội; thì người giúp sức phải làm mất tác dụng của những hành vi trước đó của mình,…
Căn cứ quyết định hình phạt trong đồng phạm
Căn cứ để phân hóa trách nhiệm hình sự trong đồng phạm để xác định hình phạt cho từng người đồng phạm là:
- Tính chất tham gia (vai trò đối với hoạt động của nhóm tội phạm)
- Mức độ tham gia (phân đống góp thực tiễn cùngo quá trình thực hiện tội phạm)
- Mức độ lỗi
- Các tình tiết về nhân thân có ý nghĩa đối với việc quyết định hình phạt.
Có thể bạn quan tâm
- Đồng phạm là gì?
- Miễn trách nhiệm hình sự dựa cùngo những căn cứ nào?
- Nhận hối lộ có thể bị phạt bao nhiêu năm tù?
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề “Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm theo hướng dẫn?”. Hy vọng bài viết hữu ích với bạn đọc. Nếu có vấn đề pháp lý cần giải quyết, vui lòng liên hệ LVN Group: 1900.0191
Giải đáp có liên quan
Theo đó , việc tìm kiếm công cụ, phương tiện phạm tội là nhiệm vụ của người giúp sức trong chế định đồng phạm; căn cứ cùngo tính chất; mức độ cũng như hậu quả gây ra có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Theo quy định của pháp luật; việc miễn trách nhiệm, miễn hình phạt cho người đồng phạm này không ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác.