Giảm tiền thuê nhà có phải là bắt buộc? Dịch Covid-19 bùng phát cùng trở thành đại dịch toàn cầu; gây nên những hao tổn lớn đối với nền kinh tế thế giới nói chung cùng Việt Nam nói riêng. Trong bối cảnh đó, mọi bộ phận trong nền kinh tế từ những doanh nghiệp lớn trị giá tỷ đô cho tới các mô hình kinh doanh vừa cùng nhỏ dù doanh thu sụt giảm nhưng vãn phải căng mình gồng gánh những khoản chi phí vận hành. Việc cắt giảm chi phí như cho chuyên viên nghỉ việc; giảm tiền thuê mặt bằng là nhiệm vụ bắt buộc phải làm. Vậy liệu rằng, chủ nhà có bắt buộc phải giảm tiền thuê vì dịch bệnh được không?
Văn bản quy định:
- Bộ luật dân sự 2015
Nội dung tư vấn
Được miễn, giảm tiền thuê nhà, mặt bằng trong trường hợp nào?
Khi thuê nhà, mặt bằng thì giữa người đi thuê cùng người cho thuê thường giao kết với nhau bằng hợp đồng. Với những trường hợp có quy mô nhỏ, có sự thân thích cùng tin tưởng lẫn nhau thì có thể không cần lập hợp đồng bằng văn bản. Tuy nhiên, hầu hết các trường hợp đi thuê mặt bằng để kinh doanh thì các bên đều lập cùng ký kết hợp đồng bằng văn bản. Việc thỏa thuận miễn, giảm tiền thuê cũng là một nội dung quan trọng trong hợp đồng thuê nhà. Căn cứ tại khoản 3 Điều 488 Bộ Luật dân sự 2015 quy định về việc miễn giảm tiền thuê nhà, mặt bằng như sau:
Điều 488. Trả tiền thuê khoán cùng phương thức trả
…
3. Khi giao kết hợp đồng thuê khoán, các bên có thể thoả thuận điều kiện về việc giảm tiền thuê khoán; nếu hoa lợi, lợi tức bị mất ít nhất là một phần ba do sự kiện bất khả kháng thì bên thuê khoán có quyền yêu cầu giảm hoặc miễn tiền thuê khoán, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Vì vậy, trong trường hợp giao kết hợp đồng hai bên có thỏa thuận với nhau điều khoản như trên. Và chảng may trong quá trình thực hiện hợp đồng, người đi thuê bị tổn hại do sự kiện bất khả kháng xảy ra thì bên thuê có thể được giảm hoặc miễn tiền thuê.
Lưu ý rằng ở đây chỉ quy định về quyền yêu cầu giảm hoặc miễn tiền thuê của bên thuê. Chứ không quy định về nghĩa vụ phải giảm hoặc miễn của bên cho thuê. Vì vậy, được giảm hoặc miễn tiền thuê được không phụ thuộc rất nhiều cùngo quá trình lập hợp đồng thuê của cả 2 bên.
Dịch Covid-19 có phải sự kiện bất khả kháng được không?
Căn cứ theo khoản 1 Điều 156 Bộ Luật dân sự 2015; quy định về sự kiện bất khả kháng như sau:
Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được cùng không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết cùng khả năng cho phép.
Căn cứ hơn, các trường hợp bất khả kháng trong hợp đồng đó là những hiện tượng thiên tai như mưa; lũ; hỏa hoạn; bão; sóng thần; núi lửa phun trào; dịch bệnh,…. Mặt khác, các hiện tượng xã hội khác như chiến tranh; đảo chính; đình công; cấm vận; thay đổi chính sách của Chính phủ cũng là sự kiện bất khả kháng.
Vì vậy, dịch Covid-19 cũng được coi là một sự kiện bất khả kháng; làm ảnh hưởng, suy giảm hoạt động kinh doanh của người đi thuê nhà. Căn cứ cùngo đó, những người đi thuê đã thỏa thuận điều khoản giảm hoặc miễn tiền thuê nhà có quyền yêu cầu chủ nhà giảm hoặc miễn tiền thuê theo hợp đồng.
Hy vọng bài viết sẽ có ích cho bạn đọc!
Để biết thêm thông tin chi tiết, cân nhắc thêm dịch vụ tư vấn của LVN Group hãy liên hệ 1900.0191
Giải đáp có liên quan
Trường hợp bên cho thuê hỗ trợ cho bên thuê mặt bằng; trong giai đoạn khó khăn này thì bên thuê có thể gửi văn bản đề nghị; thỏa thuận thanh lý hợp đồng, với nội dung: Bên cho thuê hoàn trả lại tiền cọc sau khi đã trừ hết tất cả các chi phí liên quan đến thời gian thuê chưa thanh toán trong tháng.
Trường hợp bên cho thuê không đồng ý với yêu cầu thanh lý, thì bên thuê mặt bằng gửi văn bản thông báo đơn phương chấm dứt hợp đồng, đề nghị hoàn trả lại tiền cọc sau khi đã trừ đi chi phí thuê chưa thanh toán.
Theo khoản 6 điều 321 Bộ luật Dân sự năm 2015 về quyền của bên thế chấp, bên thế chấp được cho thuê, cho mượn tài sản thế chấp nhưng phải thông báo cho bên thuê, bên mượn biết về việc tài sản cho thuê, cho mượn đang được dùng để thế chấp cùng phải thông báo cho bên nhận thế chấp biết.
Do đây là giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản cùng cũng không phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Theo đó, người từ đủ 6 tuổi – chưa đủ 18 tuổi thuê nhà nghỉ sẽ phải được người uỷ quyền theo pháp luật đồng ý.
Người uỷ quyền theo pháp luật gồm cha, mẹ đối với con dưới 18 tuổi; người giám hộ đối với người được giám hộ; người do Tòa án chỉ định (Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015).
Còn người dưới 6 tuổi sẽ không tự mình xác lập; thực hiện được giao dịch mà phải do người uỷ quyền theo pháp luật tiến hành.