Chứng cứ ghi âm trong tố tụng dân sự

Có thể thấy, chứng cứ là trong các yếu tố cần thiết để giải quyết vụ việc trong tố tụng dân sự một cách khách quan và công bằng nhất. Có rất nhiều vật được xem là chứng cứ. Vậy, Chứng cứ ghi âm trong tố tụng dân sự là thế nào? Hãy cùng nghiên cứu trong nội dung trình bày này !.

Chứng cứ ghi âm trong tố tụng dân sự

1. Chứng cứ là gì?

Khái niệm chứng cứ là một trong những nội dung cần thiết của lí luận về chứng cứ. Khái niệm chứng cứ là cơ sở để giải quyết hàng loạt vấn đề liên quan như các thuộc tính của chứng cứ, các thủ tục thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ… góp phần quyết định vào việc giải quyết đúng đắn, khách quan từng vụ án hình sự; định nghĩa chính xác khái niệm chứng cứ ảnh hưởng không nhỏ tới việc xác định địa vị pháp lí (quyền và nghĩa vụ tố tụng hình sự) của những người tham gia tố tụng, bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân.

Do có vai trò cần thiết như vậy, cho nên khái niệm chứng cứ được người làm luật xác định cụ thể trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Điều 86, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định:

“Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có được không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ỷ nghĩa trong việc giải quyết vụ án”.

Đồng thời, BLTTHS năm 2015 cũng quy định các nguồn chứng cứ là vật chứng; lời khai, lời trình bày; dữ liệu điện tử; kết luận giám định, định giá tài sản; biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; kết quả thực hiện uỷ thác tư pháp và hợp tác quốc tế; các tài liệu, đồ vật khác (khoản 1 Điều 87).

Vì vậy, chứng cứ là những thông tin có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án được chứa đựng các nguồn khác nhau. Vì vậy, cần phân biệt chứng cứ với nguồn chứng cứ. Chứng cứ là các thông tin được chứa đựng trong các nguồn chứng cứ, do vậy, các nguồn không phải là chứng cứ. Tuy nhiên, bất kì chứng cứ nào cũng được lưu giữ trong nguồn mà pháp luật quy định để đảm bảo cho chứng cứ được đúng đắn, khách quan, hợp pháp. Trong lí luận cũng như thực tiễn tố tụng, không phải lúc nào chứng cứ và nguồn chứng cứ cũng được phân biệt rõ ràng.

Việc thu thập chứng cứ mà pháp luật tố tụng hình sự quy định được hiểu là thu thập nguồn chứng cứ hoặc thu thập ngay chính chứng cứ. Thu thập con dao dính máu tại hiện trường vụ án là thu thập nguồn chứng cứ nhưng thu thập máu đọng lại trên nền nhà nơi xảy ra vụ án giết người qua khám nghiệm hiện trường lại là thu thập chứng cứ.

Khái niệm chứng cứ phải bao hàm được mối quan hệ giữa cách thức tố tụng và bản chất khách quan của chứng cứ, chủ thể và đối tượng chứng minh cũng như thể hiện trọn vẹn các yếu tố nội hàm đặc trưng của chứng cứ.

Từ những phân tích trên, căn cứ vào quy định của BLTTHS năm 2015, có thể đưa ra định nghĩa khái niệm khoa học về chứng cứ như sau:

Chứng cứ là những gì có thật được xác định bằng các nguồn nhẩt định và được thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định mà chủ thể chứng minh dùng làm căn cứ để xác định có được không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vỉ phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.

2. Đặc điểm của chứng cứ

Trong quá trình tiến hành tố tụng, không chỉ có các đơn vị tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được sử dụng chứng cứ vào quá trình chứng minh, tất cả những người tham gia tố tụng cũng có quyền đưa ra chứng cứ, sử dụng chứng cứ nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, phần lớn chứng cứ của vụ án do các đương sự chủ động gửi tới cho Toà án nhằm thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình. Toà án dựa vào những tin tức chứa đựng trong các tài liệu, vật chứng đó và trên cơ sở tranh tụng công khai tại phiên toà để đánh giá chứng cứ làm cơ sở cho việc ra phán quyết đúng pháp luật, đảm bảo công bằng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các đương sự.

Vì thế chứng cứ rất cần thiết đối với việc chứng minh của cả đơn vị tố tụng và các bên đương sự. Chứng cứ có những đặc điểm chính sau đây:

– Tính khách quan: Chứng cứ hình thành và tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Đương sự và các đơn vị tiến hành tố tụng không được tạo ra chứng cứ, nếu vậy tính khách quan sẽ không cò; do đó không thể coi là chứng cứ. Con người phát hiện, thu thập và tìm ra chứng cứ, con người nghiên cứu và đánh giá để sử dụng nó.

– Tính liên quan: Theo từ điển Tiếng Việt, nhà xuất bản Giáo dục, 1998:” tính liên quan là sự liên hệ, dính dáng nhau ở một hay một số tính chất”.Tính liên quan tỏng vụ việc tố tụng dân sự được hiểu là : các tình tiết, sự kiện, có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với vụ việc dân sự mà tòa án đang giải quyết. Chứng cứ là những thông tin làm cơ sở cho việc khẳng định sự tồn tại hoặc không tồn tại của những sự kiện có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Các sự kiện, tình tiết được coi là chứng cứ khi nó chứa đựng những nội dung gắn liền với việc giải quyết của vụ án. Bộ luật Tố tụng dân sự có quy định cụ thể các loại nguồn của chứng cứ, tuy nhiên Tòa án phải chọn lọc, đánh giá những gì có thật liên quan đến vụ việc mà thôi.

Tính liên quan của chứng cứ có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Mối quan hệ trực tiếp là mối quan hệ dựa vào đó có thể xác định nagy các tình tiết, theo hướng dẫn của Bộ luật Tố tụng dân sự xem đây là tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh. Mối liên hệ gián tiếp là mối quan hệ qua khâu trgn gian mới tìm được tình tiết, sự kiện. Tuy nhiên, cho dù là mối quan hệ trực tiếp hay gián tiếp thì đây cũng là mối quan hệ nội tại, có mối quan hệ nhân quả. Từ việc đánh giá rõ tình tiết liên quan, Tòa án có thể xác định đúng chứng cứ cần sử dụng để giải quyết đúng đắn sự việc dân sự mà không để xảy ra trường hợp thừa được không đầy đủ chứng cứ.

– Tính hợp pháp: Không phải bất kỳ thông tin thực tiễn nào liên quan đến các tình tiết sự kiện của vụ án đều có thể làm căn cứ cho Tòa án giải quyềt vụ án mà chỉ có những thông tin thực tiễn được thu thập, kiểm tra và đánh giá theo trình tự do luật định. Mặt khác, chỉ có những thông tin thực tiễn thu thập từ những nguồn do luật định mới có thể được coi là chứng cứ. Trước hết, chứng cứ phải được pháp luật thừa nhận, các tình tiết, sự kiện chỉ được coi là chứng cứ khi mà pháp luật dân sự quy định nó là một trong những loại nguồn của chứng cứ. Vật chứng luôn là vật gốc có tính đặc định, liên quan đến vụ việc dân sự thì mới có giá trị pháp lý, nếu sao chép, tái hiện lại vật chứng thì không được coi là vật chứng.

Vì vậy tòa án không chỉ thu thập đúng trình tự mà còn phải bảo quản, giữ gìn, đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện để đảm bảo tính đúng đắn hợp pháp của chứng cứ. Tính hợp pháp của chứng cứ được xác định một cách cụ thể: phải là một trong các nguồn hợp pháp mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định; Phải là phương tiện chứng minh hợp pháp mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định; Phải được giao nộp trong một thời hạn hợp pháp; Phải được công bố công khai theo hướng dẫn của Bộ luật Tố tụng dân sự ; Phải được thu thập cung cấp theo đúng pháp luật tố tụng.

3. Chứng cứ ghi âm trong tố tụng dân sự

Khoản 2 Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định rằng: “Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã gửi tới cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó”.

Khoản 5 Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định rằng: “Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên tòa”.

Vì vậy, để nội dung ghi âm được xem là một chứng cứ trong vụ án dân sự cần phải đáp ứng các điều kiện sau đây:

– Được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó.

– Có văn bản có xác nhận của người đã gửi tới cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu.

– Có văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.

– Lời khai của đương sự, người làm chứng được ghi âm theo đúng quy định của pháp luật.

Trên đây là một số thông tin về nội dung Chứng cứ ghi âm trong tố tụng dân sự. Nếu các bạn còn câu hỏi liên quan đến nội dung trên, hãy liên hệ với LVN Group để được hỗ trợ tư vấn trực tiếp.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com