Có thể thấy, chứng cứ là trong các yếu tố cần thiết để giải quyết vụ việc trong tố tụng dân sự một cách khách quan và công bằng nhất. Vậy, cách đương sự nộp chứng cứ thế nào? Hãy cùng nghiên cứu trong nội dung trình bày này !.
Khoản 5 Điều 96 bộ luật tố tụng dân sự 2015
1, Chứng cứ là gì?
Khái niệm chứng cứ là một trong những nội dung cần thiết của lí luận về chứng cứ. Khái niệm chứng cứ là cơ sở để giải quyết hàngloạt vấn đề liên quan như các thuộc tính của chứng cứ, các thủ tục thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ… góp phần quyết định vào việc giải quyết đúng đắn, khách quan từng vụ án hình sự; định nghĩa chính xác khái niệm chứng cứ ảnh hưởng không nhỏ tới việc xác định địa vị pháp lí (quyền và nghĩa vụ tố tụng hình sự) của những người tham gia tố tụng, bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân.
Do có vai trò cần thiết như vậy, cho nên khái niệm chứng cứ được người làm luật xác định cụ thể trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Điều 86, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định:
“Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có được không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ỷ nghĩa trong việc giải quyết vụ án”.
Đồng thời, BLTTHS năm 2015 cũng quy định các nguồn chứng cứ là vật chứng; lời khai, lời trình bày; dữ liệu điện tử; kết luận giám định, định giá tài sản; biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; kết quả thực hiện uỷ thác tư pháp và hợp tác quốc tế; các tài liệu, đồ vật khác (khoản 1 Điều 87).
Vì vậy, chứng cứ là những thông tin có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án được chứa đựng các nguồn khác nhau. Vì vậy, cần phân biệt chứng cứ với nguồn chứng cứ. Chứng cứ là các thông tin được chứa đựng trong các nguồn chứng cứ, do vậy, các nguồn không phải là chứng cứ. Tuy nhiên, bất kì chứng cứ nào cũng được lưu giữ trong nguồn mà pháp luật quy định để đảm bảo cho chứng cứ được đúng đắn, khách quan, hợp pháp. Trong lí luận cũng như thực tiễn tố tụng, không phải lúc nào chứng cứ và nguồn chứng cứ cũng được phân biệt rõ ràng.
Việc thu thập chứng cứ mà pháp luật tố tụng hình sự quy định được hiểu là thu thập nguồn chứng cứ hoặc thu thập ngay chính chứng cứ. Thu thập con dao dính máu tại hiện trường vụ án là thu thập nguồn chứng cứ nhưng thu thập máu đọng lại trên nền nhà nơi xảy ra vụ án giết người qua khám nghiệm hiện trường lại là thu thập chứng cứ.
Khái niệm chứng cứ phải bao hàm được mối quan hệ giữa cách thức tố tụng và bản chất khách quan của chứng cứ, chủ thể và đối tượng chứng minh cũng như thể hiện trọn vẹn các yếu tố nội hàm đặc trưng của chứng cứ.
Từ những phân tích trên, căn cứ vào quy định của BLTTHS năm 2015, có thể đưa ra định nghĩa khái niệm khoa học về chứng cứ như sau:
Chứng cứ là những gì có thật được xác định bằng các nguồn nhẩt định và được thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định mà chủ thể chứng minh dùng làm căn cứ để xác định có được không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vỉ phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.
2. Đặc điểm của chứng cứ
Trong quá trình tiến hành tố tụng, không chỉ có các đơn vị tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được sử dụng chứng cứ vào quá trình chứng minh, tất cả những người tham gia tố tụng cũng có quyền đưa ra chứng cứ, sử dụng chứng cứ nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, phần lớn chứng cứ của vụ án do các đương sự chủ động gửi tới cho Toà án nhằm thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình. Toà án dựa vào những tin tức chứa đựng trong các tài liệu, vật chứng đó và trên cơ sở tranh tụng công khai tại phiên toà để đánh giá chứng cứ làm cơ sở cho việc ra phán quyết đúng pháp luật, đảm bảo công bằng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các đương sự.
Vì thế chứng cứ rất cần thiết đối với việc chứng minh của cả đơn vị tố tụng và các bên đương sự. Chứng cứ có những đặc điểm chính sau đây:
– Tính khách quan: Chứng cứ hình thành và tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Đương sự và các đơn vị tiến hành tố tụng không được tạo ra chứng cứ, nếu vậy tính khách quan sẽ không cò; do đó không thể coi là chứng cứ. Con người phát hiện, thu thập và tìm ra chứng cứ, con người nghiên cứu và đánh giá để sử dụng nó.
– Tính liên quan: Theo từ điển Tiếng Việt, nhà xuất bản Giáo dục, 1998:” tính liên quan là sự liên hệ, dính dáng nhau ở một hay một số tính chất”.Tính liên quan tỏng vụ việc tố tụng dân sự được hiểu là : các tình tiết, sự kiện, có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với vụ việc dân sự mà tòa án đang giải quyết. Chứng cứ là những thông tin làm cơ sở cho việc khẳng định sự tồn tại hoặc không tồn tại của những sự kiện có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Các sự kiện, tình tiết được coi là chứng cứ khi nó chứa đựng những nội dung gắn liền với việc giải quyết của vụ án. Bộ luật Tố tụng dân sự có quy định cụ thể các loại nguồn của chứng cứ, tuy nhiên Tòa án phải chọn lọc, đánh giá những gì có thật liên quan đến vụ việc mà thôi.
Tính liên quan của chứng cứ có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Mối quan hệ trực tiếp là mối quan hệ dựa vào đó có thể xác định nagy các tình tiết, theo hướng dẫn của Bộ luật Tố tụng dân sự xem đây là tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh. Mối liên hệ gián tiếp là mối quan hệ qua khâu trgn gian mới tìm được tình tiết, sự kiện. Tuy nhiên, cho dù là mối quan hệ trực tiếp hay gián tiếp thì đây cũng là mối quan hệ nội tại, có mối quan hệ nhân quả. Từ việc đánh giá rõ tình tiết liên quan, Tòa án có thể xác định đúng chứng cứ cần sử dụng để giải quyết đúng đắn sự việc dân sự mà không để xảy ra trường hợp thừa được không đầy đủ chứng cứ.
– Tính hợp pháp: Không phải bất kỳ thông tin thực tiễn nào liên quan đến các tình tiết sự kiện của vụ án đều có thể làm căn cứ cho Tòa án giải quyềt vụ án mà chỉ có những thông tin thực tiễn được thu thập, kiểm tra và đánh giá theo trình tự do luật định. Mặt khác, chỉ có những thông tin thực tiễn thu thập từ những nguồn do luật định mới có thể được coi là chứng cứ. Trước hết, chứng cứ phải được pháp luật thừa nhận, các tình tiết, sự kiện chỉ được coi là chứng cứ khi mà pháp luật dân sự quy định nó là một trong những loại nguồn của chứng cứ. Vật chứng luôn là vật gốc có tính đặc định, liên quan đến vụ việc dân sự thì mới có giá trị pháp lý, nếu sao chép, tái hiện lại vật chứng thì không được coi là vật chứng.
Vì vậy tòa án không chỉ thu thập đúng trình tự mà còn phải bảo quản, giữ gìn, đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện để đảm bảo tính đúng đắn hợp pháp của chứng cứ. Tính hợp pháp của chứng cứ được xác định một cách cụ thể: phải là một trong các nguồn hợp pháp mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định; Phải là phương tiện chứng minh hợp pháp mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định; Phải được giao nộp trong một thời hạn hợp pháp; Phải được công bố công khai theo hướng dẫn của Bộ luật Tố tụng dân sự ; Phải được thu thập cung cấp theo đúng pháp luật tố tụng.
3. Các thuộc tính của chứng cứ trong tố tụng dân sự
3.1 Tính khách quan của chứng cứ
Tính khách quan là một ưong nhũng thuộc tính quan ưọng của chứng cứ. Theo định nghĩa thì chứng cứ là những gì có thật. Điều đó có nghĩa rằng chứng cứ là những thông tin, tài liệu, đồ vật khách quan, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người. Các thông tin, tài liệu, đồ vật đó phù hợp với các tình tiết của vụ án đang được chứng minh. Trong BLTTHS năm 2015, tính khách quan của chứng cứ được gọi là tính xác thực của chứng cứ (khoản 1 Điều 108).
Cũng có ý kiến cho rằng một số chứng cứ chứa đựng ưong lời khai của người tham gia tố tụng thì khó mang tính khách quan, dù ít hay nhiều đều bị ảnh hưởng của yếu tố chủ quan, của ý chí người khai báo. Thực ra, chứng cứ ưong lời khai của người tham gia tố tụng là những thông tin về tội phạm được phản ánh khách quan trong ý thức người chứng kiến sự việc phạm tội đó. Vì vậy, về bản chất các thông tin được khai báo là khách quan. Tuy nhiên, do tác động của các yếu tố khác nhau (như khả năng tiếp nhận thông tin, quan hệ với người phạm tội, người bị hại…) mà thông tín đó được tiếp nhận hoặc gửi tới sai lệch. Nhiệm vụ của đơn vị tiến hành tố tụng là kiểm tra xem các thông tin đó có khách quan được không. Các thông tin mà đơn vị điều tra, viện kiểm sát, toà án hay người có thẩm quyền khác nhận được mà không khách quan thì dù bất ki lí do gì đều không được coi là chứng cứ.
Những thông tin, tài liệu, đồ vật dù tồn tại trên thực tiễn nhưng bị xuyên tạc, bóp méo hay bị làm giả theo ý chí chủ quan thì không còn mang tính khách quan. Vì vậy, những thông tin, tài liệu, đồ vật đỏ không thể là chứng cứ của vụ án được.
3.2 Tính liên quan của chứng cứ
Chứng cứ là những thông tin, tài liệu, đồ vật mà đơn vị, người có thẩm quyền dùng làm căn cứ để xác định có được không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử một vụ án hình sự, thông thường nhiều thông tin, tài liệu được thu thập. Tuy nhiên, không phải tất các thông tin, tài liệu thu thập được đều là chứng cứ mà chỉ các thông tin, tài liệu liên quan đến vụ án, tức dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án mới là chứng cứ.
Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở mối liên hệ khách quan của các thông tin, tài liệu với các tình tiết của vụ án cần được xác định. Mối quan hệ này thể hiện ở hai mức độ khác nhau:
– Ở mức độ thứ nhất, mối quan hệ của chứng cứ với đối tượng chứng minh. Đây là mối quan hệ cơ bản, chủ yếu. Thể hiện mối quan hệ này, chứng cứ được dùng làm căn cứ để giải quyết thực chất vụ án, tức xác định hành vi phạm tội, người phạm tội, lỗi của người phạm tội, các tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc quyết định hình phạt, các biện pháp tư pháp V.V..
– Ỏ mức độ khác, có những thông tin, tài liệu, đồ vật không được dùng làm căn cứ trực tiếp để giải quyết thực chất vụ án nhưng lại được dùng để xác định các tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Trong trường hợp này tính liên quan của chúng được thể hiện một cách gián tiếp. Mặc dù là quan hệ gián tiếp nhưng trong nhiều trường hợp việc chứng minh tội phạm không thể thiếu được các thông tin, tài liệu, đồ vật này.
3.3 Tính hợp pháp của chứng cứ
Tính hợp pháp của chứng cứ là sự phù hợp của nó với các quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Tính hợp pháp của chứng cứ thể hiện trong các mặt sau đây:
Chứng cứ được xác định bằng nguồn nhất định theo hướng dẫn của pháp luật. Những thông tin, tài liệu, đồ vật tuy tồn tại trong thực tiễn và có liên quan đến vụ án nhưng không được lưu giữ trong nguồn mà pháp luật quy định thì không được coi là chứng cứ.
Theo khoản 1 Điều 87 BLTTHS năm 2015 thì chứng cứ phải được xác định bằng một trong các nguồn:
– Vật chứng;
– Lời khai, lời trình bày;
– Dữ liệu điện tử;
– Kết luận giám định, định giá tài sản;
– Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án;
– Kết quả thực hiện uỷ thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác;
– Các tài liệu, đồ vật khác.
Chứng cứ của vụ án có thể được xác định bằng một hay nhiều nguồn khác nhau mà bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định.
Tính hợp pháp của chứng cứ đòi hỏi không chỉ ở việc chửng cứ phải được lưu giữ trong nguồn nhất định mà còn đòi hỏi mỗi loại chứng cứ phải được xác định bằng nguồn tương ứng xác định.
Tuỳ theo đặc điểm, tính chất của từng loại chứng cứ mà BLTTHS quy định các trình tự, thủ tục thu thập khác nhau nhằm đảm bảo tính khách quan và giá tậ chứng minh của chứng cứ trong tất cả các giai đoạn tố tụng. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ bằng cách lấy lời khai, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác theo hướng dẫn của pháp luật (Điều 88 bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chỉ được dùng làm chứng nếu họ nói rõ vì sao biết được tình tiết mà họ trình bày (các điều 91, 92, 93, 94 bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Vật chứng cứ phải được thu thập kịp thời, trọn vẹn, mô tả đúng thực trạng vào biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án. Trường hợp vật chứng không thể đưa vào hồ sơ vụ án thì phải chụp ảnh, có thể ghi hình để đưa vào hồ sơ vụ án. Vật chứng phải được niêm phong, bảo quản theo hướng dẫn của pháp luật (Điều 105 bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ); các tình tiết không được mô tả trong biên bản thu giữ vật chứng thì không phải là chứng cứ và không có giá trị chứng minh.
4. Khoản 5 Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự 2015
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự, người đã yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hay nói cách khác, đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, gửi tới, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp.
Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp nghĩa vụ chứng minh này không thuộc về đương sự, cụ thể là các trường hợp sau đây:
– Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra tổn hại theo hướng dẫn của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
– Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không gửi tới, giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm gửi tới, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án.
Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo hướng dẫn của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động;
– Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh.
Ngoài đương sự, đơn vị, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác phải thu thập, gửi tới, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Mặc khác, tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo hướng dẫn của Luật bảovệ quyền lợi người tiêu dùng.
Tuy nhiên, Khoản 5 Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có quy định rằng khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người uỷ quyền hợp pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này hoặc tài liệu, chứng cứ không thể sao gửi được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người uỷ quyền hợp pháp của đương sự khác.
Trên đây là một số thông tin về nội dung Khoản 5 Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Nếu các bạn còn câu hỏi liên quan đến nội dung trên, hãy liên hệ với LVN Group để được hỗ trợ tư vấn trực tiếp.