Việc tiết kiệm, chống lãng phí ở quốc gia nào cũng đều chú trọng vào quản lý, sử dụng trụ sở công tác, nhà công vụ đơn vị, tổ chức sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước và các công trình phúc lợi công cộng, quản lý và sử dụng lao động; quản lý và sử dụng vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, việc sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Bài viết này phân tích kinh nghiệm quản lý tài sản công của Mỹ, Anh, Nhật Bản, trên cơ sở đó, rút ra một số bài học nhằm nâng cao hiệu quả quản lý tài sản công ở Việt Nam.
1. Các loại tài sản công
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công 2017 quy định tài sản công là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước uỷ quyền chủ sở hữu và thống nhất quản lý, bao gồm:
– Tài sản công phục vụ hoạt động quản lý, gửi tới dịch vụ công, bảo đảm quốc phòng, an ninh tại đơn vị, tổ chức, đơn vị;
– Tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng;
– Tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân;
– Tài sản công tại doanh nghiệp;
– Tiền thuộc ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, dự trữ ngoại hối nhà nước;
– Đất đai và các loại tài nguyên khác.
2. Phân loại tài sản công
Tài sản công theo hướng dẫn tại Điều 4 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công 2017 được phân loại như sau:
(1) Tài sản công phục vụ hoạt động quản lý, gửi tới dịch vụ công, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đơn vị nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức khác được thành lập theo hướng dẫn của pháp luật về hội, trừ tài sản quy định tại (4) (sau đây gọi là tài sản công tại đơn vị, tổ chức, đơn vị);
(2) Tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng là các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật, công trình kết cấu hạ tầng xã hội và vùng đất, vùng nước, vùng biển gắn với công trình kết cấu hạ tầng, bao gồm:
Hạ tầng giao thông, hạ tầng gửi tới điện, hạ tầng thủy lợi và ứng phó với biến đổi khí hậu, hạ tầng đô thị, hạ tầng cụm công nghiệp, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao, hạ tầng thương mại, hạ tầng thông tin, hạ tầng giáo dục và đào tạo, hạ tầng khoa học và công nghệ, hạ tầng y tế, hạ tầng văn hóa, hạ tầng thể thao, hạ tầng du lịch và hạ tầng khác theo hướng dẫn của pháp luật (sau đây gọi là tài sản kết cấu hạ tầng);
(3) Tài sản công tại doanh nghiệp;
(4) Tài sản của dự án sử dụng vốn nhà nước;
(5) Tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân theo hướng dẫn của pháp luật bao gồm:
– Tài sản bị tịch thu;
– Tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy, tài sản không có người nhận thừa kế và tài sản khác thuộc về Nhà nước theo hướng dẫn của Bộ luật Dân sự;
– Tài sản do chủ sở hữu tự nguyện chuyển giao quyền sở hữu cho Nhà nước;
– Tài sản do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn cho Nhà nước Việt Nam theo cam kết sau khi kết thúc thời hạn hoạt động;
– Tài sản được đầu tư theo cách thức đối tác công tư được chuyển giao cho Nhà nước Việt Nam theo hợp đồng dự án;
(6) Tiền thuộc ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách và dự trữ ngoại hối nhà nước;
(7) Đất đai; tài nguyên nước, tài nguyên rừng, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, kho số viễn thông và kho số khác phục vụ quản lý nhà nước, tài nguyên Internet, phổ tần số vô tuyến điện, quỹ đạo vệ tinh và các tài nguyên khác do Nhà nước quản lý theo hướng dẫn của pháp luật.
3. Nguyên tắc quản lý, sử dụng tài sản công
Việc quản lý, sử dụng tài sản công phải được dựa trên những nguyên tắc quy định tại Điều 6 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công 2017 như sau:
– Mọi tài sản công đều phải được Nhà nước giao quyền quản lý, quyền sử dụng và các cách thức trao quyền khác cho đơn vị, tổ chức, đơn vị và đối tượng khác theo hướng dẫn của Luật này và pháp luật có liên quan.
– Tài sản công do Nhà nước đầu tư phải được quản lý, khai thác, duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa, được thống kê, kế toán trọn vẹn về hiện vật và giá trị, những tài sản có nguy cơ chịu rủi ro cao do thiên tai, hoả hoạn và nguyên nhân bất khả kháng khác được quản lý rủi ro về tài chính thông qua bảo hiểm hoặc công cụ khác theo hướng dẫn của pháp luật.
– Tài sản công là tài nguyên phải được kiểm kê, thống kê về hiện vật, ghi nhận thông tin phù hợp với tính chất, đặc điểm của tài sản;
Đồng thời phải được quản lý, bảo vệ, khai thác theo quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả, đúng pháp luật.
– Tài sản công phục vụ công tác quản lý, gửi tới dịch vụ công, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đơn vị, tổ chức, đơn vị phải được sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, đúng mục đích, công năng, đối tượng, tiêu chuẩn, định mức, chế độ theo hướng dẫn của pháp luật.
– Việc khai thác nguồn lực tài chính từ tài sản công phải tuân theo cơ chế thị trường, có hiệu quả, công khai, minh bạch, đúng pháp luật.
– Việc quản lý, sử dụng tài sản công phải được thực hiện công khai, minh bạch, bảo đảm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng.
– Việc quản lý, sử dụng tài sản công được giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán;
Theo đó, mọi hành vi vi phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh theo hướng dẫn của pháp luật.
4. Các hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý, sử dụng tài sản công
Theo Điều 10 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công 2017 quy định các hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý, sử dụng tài sản công như sau:
– Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt, chiếm giữ và sử dụng trái phép tài sản công.
– Đầu tư xây dựng, mua sắm, giao, thuê, sử dụng tài sản công không đúng mục đích, chế độ, vượt tiêu chuẩn, định mức.
– Giao tài sản công cho đơn vị, tổ chức, đơn vị, cá nhân vượt tiêu chuẩn, định mức hoặc giao cho đơn vị, tổ chức, đơn vị, cá nhân không có nhu cầu sử dụng.
– Sử dụng xe ô tô và tài sản công khác do tổ chức, cá nhân tặng cho không đúng mục đích, chế độ, vượt tiêu chuẩn, định mức.
– Sử dụng hoặc không sử dụng tài sản công được giao gây lãng phí; sử dụng tài sản công vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết không phù hợp với mục đích sử dụng của tài sản, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ do Nhà nước giao; sử dụng tài sản công để kinh doanh trái pháp luật.
– Xử lý tài sản công trái quy định của pháp luật.
– Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản công.
– Chiếm đoạt, chiếm giữ, sử dụng trái phép tài sản công.
– Không thực hiện hoặc thực hiện không trọn vẹn trách nhiệm, nghĩa vụ trong quản lý, sử dụng tài sản công theo hướng dẫn của pháp luật.
– Hành vi bị nghiêm cấm khác trong quản lý, sử dụng tài sản công theo hướng dẫn của pháp luật có liên quan.
5. Kinh nghiệm quốc tế trong quản lý tài sản công
Mỹ
Từ trước năm 1949, chức năng quản lý tài sản của Chính phủ Liên bang Hoa Kỳ được thực hiện bởi 4 đơn vị: Cục Công trình, Cục Quản lý kiến trúc công cộng, Bộ Tài chính thuộc Cục Cung ứng Liên bang và Văn phòng giải quyết tranh luận hợp đồng. Chế độ quản lý này sau đó bộc lộ sự chồng chéo về chức năng, hiệu suất quản lý giảm sút, phát sinh nhiều vấn đề phức tạp trên phương diện quản lý việc gửi tới trụ sở văn phòng và thiết bị công tác.
Để xây dựng chế độ quản lý tài sản chính phủ có hiệu quả kinh tế cao, Ủy ban Hoover (được thành lập bởi Quốc hội Mỹ) đã nghiên cứu để nâng cao trình độ dịch vụ hành chính, đưa ra các kiến nghị cải cách và “Luật Phục vụ hành chính là tài sản Liên bang” đã ra đời năm 1949. Trên cơ sở đó, Cơ quan Dịch vụ công (GSA) trực thuộc Chính phủ Liên bang Hoa Kỳ được thành lập trên cơ sở hợp nhất 4 đơn vị trên, với chức năng uỷ quyền cho Chính phủ liên bang thực hiện tập trung quản lý tài sản của Chính phủ Liên bang sở hữu, cung ứng hàng hóa, dịch vụ và tài sản cho các đơn vị thuộc Chính phủ Liên bang như: văn phòng phẩm, xe ô tô, nhà, trụ sở công tác, thiết bị công tác…
Tính đến đầu năm 2015, tài sản của Liên bang do GSA quản lý lên tới 500 tỷ USD, bao gồm tài sản tại 8.600 trụ sở do Chính phủ Liên bang sở hữu hoặc cho thuê, 208.000 phương tiện vận chuyển, 425 địa điểm là di tích lịch sử. Mặc dù, ngân sách hoạt động hàng năm của GSA lên tới 24 tỷ USD, nhưng chỉ có khoảng 1,9% ngân sách của Chính phủ liên bang cấp sau khi được Quốc hội phê chuẩn, còn lại là ngân sách thu được từ các sản phẩm dịch vụ được gửi tới cho các đơn vị thuộc Chính phủ Liên bang.
Đối với tài sản là nhà, đất, quyền sở hữu và sửa chữa, duy tu tài sản là nhà, đất của Chính phủ Liên bang đều do GSA quản lý. Căn cứ dự toán ngân sách được Quốc hội phê chuẩn và nhu cầu sử dụng tài sản là nhà, đất, các đơn vị thuộc Chính phủ phải ký Hợp đồng sử dụng tài sản nhà, đất với GSA, trong đó xác định thời gian, số tiền thuê, thời hạn trả tiền thuê.
Đối với những tài sản như: Ô tô, máy tính, máy photo… dự toán mua sắm, trang bị được thể hiện ở trong dự toán hoạt động của đơn vị sử dụng tài sản và được đơn vị có thẩm quyền phê duyệt. Việc mua sắm tài sản do GSA thực hiện theo phương thức mua sắm tập trung, giá mua thường thấp hơn so với giá thị trường từ 20-30%, bảo đảm tiết kiệm ngân sách mua tài sản. Việc xử lý tài sản nhà, đất và xe cộ cũng do GSA phụ trách, khi xử lý tài sản phải tiến hành đánh giá đối với toàn bộ thời gian sử dụng của tài sản, xác định đã đạt đến dự toán hay chưa và phân tích nguyên nhân. Những phương tiện xe cộ đến thời hạn thanh lý sẽ được GSA thực hiện ủy thác bán đấu giá, số tiền thu được phải nộp vào ngân quỹ nhà nước.
GSA có trách nhiệm gửi tới dịch vụ về tài sản cho các đơn vị thuộc Chính phủ Liên bang Hoa Kỳ, nhưng các đơn vị này cũng không bắt buộc phải mua dịch vụ từ phía GSA, mà có thể lựa chọn mua sản phẩm và dịch vụ từ các đơn vị thương mại khác. Trên phương diện dịch vụ mua bán, duy tu, xử lý tài sản, Chính phủ Liên bang đã đưa ra một cơ chế cạnh tranh thị trường, thúc đẩy GSA cải thiện dịch vụ quản lý tài sản của mình.
Vương quốc Anh
Chính phủ Anh đã thành lập một Ủy ban để thực hiện rà soát toàn bộ việc chi tiêu của các bộ, ngành Trung ương và đơn vị của Chính phủ trong việc mua sắm hàng hóa, dịch vụ. Việc rà soát này một mặt hướng tới mục tiêu cụ thể trước mắt là cắt giảm chi và tiết kiệm chi ngân sách nhà nước, nhưng về lâu dài là hướng tới việc quản lý, sử dụng có hiệu quả hàng hóa, dịch vụ phục vụ các đơn vị công quyền và thay đổi nhận thức của đơn vị, đơn vị mua sắm, cũng như tổ chức gửi tới hàng hóa, dịch vụ công cho Chính phủ.
Trong quá trình rà soát, Ủy ban đã phát hiện một số loại hàng hóa, dịch vụ mà các bộ, ngành, đơn vị Chính phủ sử dụng có đặc điểm tương đồng về yêu cầu chất lượng, yếu tố kỹ thuật… nhưng giá mua sắm lại rất khác nhau và do nhiều nhà thầu khác nhau gửi tới, thời gian thực hiện hợp đồng bị kéo dài ở các mức độ khác nhau. Qua rà soát cũng phát hiện, nhiều đơn vị, đơn vị mua sắm hàng hóa, tài sản tràn lan, vượt quá định mức và nhu cầu cần thiết.
Xuất phát từ yêu cầu, thực tiễn đòi hỏi và mục tiêu quản lý nêu trên, Chính phủ Anh đã thành lập đơn vị thực hiện chương trình mua sắm tập trung trực thuộc Chính phủ. Cơ quan Dịch vụ mua sắm công là một đơn vị thuộc Văn phòng Nội các Vương quốc Anh (mô hình hoạt động tương tự như đơn vị sự nghiệp ở Việt Nam) có chức năng nghiên cứu, đề xuất giải pháp và tổ chức thực hiện biện pháp nhằm quản lý, nâng cao hiệu quả mua sắm và tiết kiệm chi phí mua sắm hàng hóa, dịch vụ phục vụ cho các đơn vị của Chính phủ bằng nguồn ngân sách nhà nước.
Cơ quan Dịch vụ mua sắm Chính phủ của Vương quốc Anh có khoảng 400 chuyên viên, trong đó khoảng 80% là các chuyên gia mua sắm tài sản. Ngoài trụ sở chính đặt tại Thành phố Liverpool, đơn vị này còn có 4 chi nhánh ở khắp nước Anh. Danh mục mua sắm tập trung bao gồm những hàng hóa, dịch vụ mà các bộ, ngành, đơn vị Chính phủ có yêu cầu sử dụng cơ bản giống nhau được phân theo lĩnh vực, nhóm hàng hóa, dịch vụ chủ yếu mà các đơn vị thuộc Chính phủ có nhu cầu mua sắm, sử dụng thường xuyên: Năng lượng, Văn phòng phẩm, Phương tiện đi lại, Dịch vụ quản lý công sở và nhà công vụ… Kết quả thực hiện mua sắm tập trung tại đơn vị dịch vụ mua sắm công ở Anh thể hiện rất rõ hiệu quả của mô hình mua sắm tập trung này. Chỉ tính riêng trong 2 năm 2012 và 2013, đơn vị dịch vụ mua sắm công đã thực hiện mua sắm tài sản tập trung với giá trị là 24 tỷ Bảng Anh, chi phí tiết kiệm được qua mua sắm tập trung là 3,6 tỷ Bảng.
Nhật Bản
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1947, Nhật Bản ban hành Luật Tự chủ địa phương quy định chính quyền địa phương gồm hai cấp (cấp tỉnh và cấp hạt). Đối với lĩnh vực quản lý tài sản công, thể chế tự chủ địa phương cho phép các địa phương tự chủ trong việc quyết định các chính sách quản lý tài sản công và mua sắm công độc lập với Chính phủ.
Vì vậy, chính sách quản lý và việc thực hiện mua sắm của các bộ, ngành trung ương có thể khác với các tỉnh và giữa các tỉnh có thể khác nhau. Tuy nhiên, tại Nhật Bản, cả chính quyền trung ương và địa phương đều có xu hướng giảm chế độ mua sắm, trang bị tài sản cho các đơn vị nhà nước mà chuyển sang cách thức thuê tài sản. Điều này thể hiện rõ qua khảo sát của Bộ Tài chính Việt Nam tại Osaka (Nhật Bản) trong việc thực hiện mô hình quản lý mua sắm, trang bị tài sản theo mô hình tập trung.
Năm 2000, chính quyền tỉnh Osaka đã cải cách việc mua sắm công với việc thành lập Cục Mua sắm công với nhiệm vụ quản lý về mua sắm công mà chủ yếu là đấu thầu mua sắm công đối với tất cả tài sản, hàng hóa, dịch vụ liên quan đến chi tiêu công (bao gồm cả lựa chọn nhà đầu tư, xây dựng) cho toàn tỉnh và không thu phí dịch vụ.
Đồng thời, Cục cũng thực hiện một số chức năng kiểm soát như một đơn vị quản lý công sản. Việc thực hiện mua sắm, trang bị tài sản cho các đơn vị nhà nước tại đơn vị thuộc trung ương được tổ chức theo hai cách thức (mua sắm tập trung và mua sắm phân tán). Mặc dù, không có quy định bắt buộc mua sắm công tập trung, chính quyền tỉnh Osaka vẫn yêu cầu tất cả hàng hóa, dịch vụ gửi tới cho đơn vị nhà nước bắt buộc mua sắm công tập trung và do Cục Mua sắm công thực hiện, cụ thể như:
– Đối với tài sản là trụ sở công tác: Tại Trung ương, việc đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư được thực hiện tập trung (Bộ Xây dựng quản lý việc đấu thầu xây dựng), sau khi xây dựng xong thì các bộ, ngành được giao quản lý, sử dụng và chịu trách nhiệm bảo dưỡng, sửa chữa (trường hợp sửa chữa lớn phải thông qua Bộ Xây dựng). Tại tỉnh Osaka, việc đầu tư xây dựng trụ sở công tác và quản lý (bao gồm cả gửi tới dịch vụ duy trì, bảo hành, bảo dưỡng) do Cục Mua sắm công thực hiện.
– Đối với tài sản là phương tiện vận tải: Tại Trung ương, áp dụng cơ chế mua sắm phân tán trên cơ sở tiêu chuẩn, định mức do Nhà nước ban hành. Các bộ, ngành trung ương tự đặt hàng mua sắm nhưng nếu không mua đúng quy định thì đơn vị tài chính sẽ không thanh toán. Tuy nhiên, Chính phủ có xu hướng giảm dần việc trang bị xe công, hạn chế tiêu chuẩn, định mức, không cho các đơn vị mua xe để dần chuyển sang cơ chế thuê, thuê mua phương tiện. Tại tỉnh Osaka, không thực hiện việc trang bị xe công mà thực hiện cơ chế thuê phương tiện phục vụ cho hoạt động của các đơn vị của tỉnh. Việc đấu thầu thuê xe được thực hiện tập trung thông qua Cục Mua sắm công.
– Đối với máy móc, thiết bị văn phòng (máy tính, photocopy, điều hòa…): Tại các bộ, ngành trung ương và tỉnh Osaka đều không mua sắm mà thực hiện cơ chế thuê (thuê mua), thời hạn thuê trong 10 năm bao gồm cả dịch vụ bảo trì, bảo hành, bảo dưỡng trong thời gian thuê. Ở trung ương, các bộ, ngành tự tổ chức đấu thầu thuê tài sản, còn tại tỉnh Osaka thì việc thuê máy móc, thiết bị văn phòng được thực hiện tập trung qua Cục Mua sắm công.
– Đối với tài sản là công cụ, dụng cụ tiêu hao như giấy, bút: Tại các bộ, ngành thuộc trung ương và tại tỉnh Osaka đều áp dụng theo phương thức mua sắm tập trung. Ở các bộ, ngành việc mua sắm tập trung có thể không bắt buộc nhưng tại tỉnh Osaka thì việc mua sắm tập trung những tài sản này là bắt buộc và thực hiện qua Cục Mua sắm công.