Giám định là một trong các hoạt động cơ bản trong tố tụng dân sự. Vậy, Giám định là gì? Quy định về kết luận giám định trong hoạt động tố tụng dân sự là thế nào? Hãy cùng nghiên cứu trong nội dung trình bày này !.
Quy định về kết luận giám định trong hoạt động tố tụng dân sự
1. Giám định là gì?
Giám định là một hoạt động khoa học kỹ thuật cao và mang tính đặc thù đồng thời giám định cũng được xem là ngành kinh doanh, tầm cần thiết của dịch vụ giám định không chỉ liên quan đến số phận của hàng hóa hay doanh nghiệp có hàng hóa cần giám định, mà liên quan đến cả tính mạng con người.
Giám định thương mại là hoạt động đòi hỏi sự đầu tư lớn về chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất. Quy trình tác nghiệp trong công tác giám định phải đáp ứng các điều kiện khắt khe về trình độ chuyên môn, kỹ năng hành nghề của giám định viên và có cơ sở trang thiết bị phù hợp. Với tính chất nêu trên, quy định tại khoản 1 Điều 257 Luật Thương mại năm 2005 là cơ sở để hoạt động giám định thương mại được tiến hành một cách chuyên nghiệp, chính xác hơn. Qua đó phát huy vai trò của hoạt động giám định thương mại đối với các chủ thể liên quan.
Điều 254 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Dịch vụ giám định là hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân thực hiện những công việc cần thiết để xác định tình trạng thực tiễn của hàng hoá, kết quả cung ứng dịch vụ và những nội dung khác theo yêu cầu của khách hàng”.
2. Quy định của pháp luật về người giám định
Người giám định là người tham gia tố tụng sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến vụ việc dân sự.
Người giám định tham gia tố tụng có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết vụ việc dân sự. Để làm tròn được nhiệm vụ, người giám định phải có kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn cần thiết về lĩnh vực cần giám định theo hướng dẫn tại Điều 7 Luật giám định tư pháp. Mặt khác, ngưởi giám định còn phải vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Việc tham gia tố tụng dân sự của người giám định do toà án quyết định theo yêu cầu của đương sự.
– Quyền và nghĩa vụ của người giám định
Trong tố tụng dân sự, người giám định có các quyền và nghĩa vụ về chuyên môn, vật chất ttong việc thực hiện giám định. Việc bảo đảm thực hiện đúng được các quyền, nghĩa vụ tố tụng của người giám định ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Như người làm chứng, việc thực hiện được đúng các quyền, nghĩa vụ tố tụng của người giám định trong nhiều trường hợp cũng có tính chất quyết định đối với kết qụả giải quyết vụ việc dân sự.
Khi thực hiện nhiệm vụ, người giám định có quyền, nghĩa vụ đọc các tài liệu có trong hồ sơ vụ việc dân sự liên quan đến đối tượng giám định; yêu cầu toà án gửi tới những tài liệu cần thiết cho việc giám định; tham gia vào việc hỏi những người tham gia tố tụng và được đặt các câu hỏi về những vấn đề có liến quan đến đối tượng giám định; có mặt theo giấy triệu tập của toà án; trả lời về những vấn đề liên quan đến việc giám định; kết luận giám định một cách khách quan và có căn cứ; từ chối giám định do yêu cầu giám định vượt quá khả năng chuyên môn của mình, tài liệu được gửi tới phục vụ cho việc giám định không đủ hoặc không sử dụng được hoặc các trường hợp khác pháp luật có quy định; bảo quản tài liệu đã nhận; không được tiết lộ bí mật thông tin mà mình biết khi tiến hành giám định hoặc thông báo kết quả giám định cho người khác, trừ thẩm phán quyết định trưng cầu giám định; cam đoan trước toà án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình; được hưởng các khoản phí đi lại và các chế độ khác theo hướng dẫn của pháp luật. Người giám định từ chối kết luận giám định mà không có lý do chính đáng hoặc kết luận giám định sai sự thật hoặc khi được toà án triệu tập mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm theo hướng dẫn của pháp luật.
Các quyền và nghĩa vụ của người giám định trong tố tụng dân sự được quy định tại các điều 80, 230, 257 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và các điều 11, 23 Luật giám định tư pháp. Các điều luật này đã quy định được cụ thể quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người giám định.
3. Thủ tục trưng cầu giám định trong tố tụng dân sự
Trưng cầu giám định chỉ do Toà án, người tiến hành tố tụng thực hiện; đương sự trong vụ việc dân sự chỉ có quyền yêu cầu Toà án trưng cầu giám định; chứ không được tự trưng cầu giám định. Chỉ sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định; nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự; thì họ mới được tự mình yêu cầu giám định. Do đó, trong phạm vi nội dung trình bày này; sẽ chỉ đề cập đến thủ tục yêu cầu trưng cầu giám định trong tố tụng dân sự của đương sự. Thủ tục như sau:
– Chuẩn bị
Xác định nơi nộp yêu cầu trưng cầu giám định: Dựa trên thẩm quyền xét xử vụ việc dân sự; thẩm phán TAND nơi đã thụ lý đơn khởi kiện là người có quyền ra quyết định trưng cầu giám định. Do đó; nơi nộp đơn yêu cầu trưng cầu giám định là Tòa án Nhân dân nơi đã thụ lý đơn khởi kiện.
– Hồ sơ cần có:
Gồm đơn yêu cầu trưng cầu giám định và các tài liệu chứng minh cơ sở của yêu cầu; để thẩm phán nghiên cứu hồ sơ có thể xem xét, đánh giá việc ra quyết định trưng cầu giám định.
– Trình tự thực hiện:
Đương sự nộp đơn yêu cầu trưng cầu giám định đến Tòa án Nhân dân nơi đã thụ lý đơn khởi kiện; có thể nộp đơn trực tiếp hoặc bằng đường bưu tiện.
Trong trường hợp được Toà án chấp nhận; thì đương sự trong vụ việc có yêu cầu trưng cầu giám định phải nộp tiền tạm ứng chi phí giám định. Khoản tiền này do tổ chức, cá nhân thực hiện giám định tạm tính; để thực hiện giám định theo trưng cầu của đơn vị tiến hành tố tụng.
Nếu Toà án từ chối ra quyết định trưng cầu giám định; thì đương sự có quyền tự mình yêu cầu giám định.
– Thời hạn giải quyết: Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nộp đủ hồ sơ hợp lệ; Thẩm phán sẽ ra quyết định trưng cầu giám định hoặc từ chối yêu cầu của đương sự. Nếu yêu cầu của đương sự được chấp nhận; thì việc giám định sẽ được tiến hành sau khi có quyết định trưng cầu; và trả về kết quả giám định.
4. Quy định về kết luận giám định trong hoạt động tố tụng dân sự
Giai đoạn kết luận là kết quả của tất cả các giai đoạn giám định trước đó. ở giai đoạn này, Giám định viên đánh giá lần cuôì những kết quả giám định đã thu được; đánh giá sự đồng nhất và đánh giá những khác biệt để đi đến kết luận.
Kết luận giám định phải được lập thành văn bản và có nội dung chính sau đây:
– Họ, tên người thực hiện giám định;
– Tên đơn vị tiến hành tố tụng hoặc họ, tên người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định; số văn bản trưng cầu giám định;
– Thời gian nhận văn bản trưng cầu giám định;
– Nội dung yêu cầu giám định;
– Phương pháp thực hiện giám định;
Kết luận về đối tượng giám định:
– Bản kết luận giám định phải có chữ ký của người giám định tư pháp; trong trưòng hợp tổ chức được trưng cầu giám định thì bản kết luận giám định còn phải được người đứng đầu tổ chức đó ký tên, đóng dấu.
Khi Giám định viên kết luận giám định thì nội dung kết luận thường thể hiện dưới các dạng sau đây:
– Kết luận khẳng định:
Kết luận khẳng định đồng nhất: được đưa ra nếu thấy rằng những đặc điểm cá hiệt và Ổn định đã xác định được có ở dấu vết, vật chứng cần giám định, đồng thời củng có ở mẫu so sánh và tuy có những khác biệt, nhưng không cơ bản, xuất hiện ngẫu nhiên, có thể giải thích được.
Kết luận khẳng định không đồng nhất: được đưa ra nếu thấy rằng có những khác biệt cơ bản, xuất hiện tất nhiên, ổn định giữa những đặc điểm của đối tượng cần giám định và đối tượng là mẫu so sánh.
– Kết luận khả năng:
+ Kết luận khả năng đồng nhất: được đưa ra khi có một số lượng nhất định những đặc điểm cá biệt giống nhau, nhưng tính ổn định không cao và số lượng những đặc điểm giông nhau chưa đủ để kết luận khẳng định đồng nhất. Giám định viên phát hiện thấy những khác biệt, nhưng không giải thích được. Nếu có nhiều thông tin hơn nữa thì có thể kết luận khẳng định đồng nhất được.
+ Kết luận khả năng không đồng nhất: được đưa ra khi có nhiều đặc điểm của đối tượng cần giám định và mẫu so sánh khác biệt nhau, nhưng lại có những đặc điểm giống nhau. Tuy nhiên, sự khác biệt lớn hơn sự giống nhau, nhưng lại không giải thích được những đặc điểm giống nhau. Nếu có nhiều thông tin hơn nữa thì có thể khẳng định kết luận không đồng nhất”.
– Mặt khác, trong thực tiễn còn có loại kết luận giám định khác như: không đủ yếu tố để giám định; hoặc giám định về tự dạng, phần kết luận về đối tượng giám định chữ viết: chữ viết trên mẫu A với chữ viết trên mẫu B không phải do một người viết ra hoặc do cùng một người viết ra, mà không thấy phân tích về sự đồng nhất hay những sự khác biệt, không đề cập đến phương pháp giám định trong bản kết luận.
Thời gian qua, nhìn chung, các kết luận giám định là rõ ràng, có chất lượng tương đốỉ tốt, viết gọn rõ, dễ hiểu, trả lời được tất cả các vấn đề đặt ra trong quyết định trưng cầu giám định. Tuy nhiên, cũng có những bản giám định chưa thật tốt. Căn cứ là có bản kết luận giám định chưa thể hiện rõ ý kiến của Giám định viên; có bản kết luận giám định chưa được người giám định kiến giải một cách trọn vẹn, rõ ràng, dễ hiểu những vấn đề cần làm sáng tỏ; có những bản kết luận giám định viết quá vắn tắt đến nỗi rất khó hiểu, làm cho người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng không hiểu được, hiểu không đúng về kết luận giám định, thậm chí có những bản giám định mà nội dung kết luận đoạn trên, đoạn dưới mâu thuẫn nhau; có bản kết luận không trình bày phương pháp thực .hiện giám định (gắn vối nó là phương tiện) để người tiến hành tố tụng có điều kiện đánh giá xem phương pháp giám định nào khoa học, tiên tiến hơn, từ đó, có điều kiện đánh giá bản kết luận giám định nào chứa đựng độ chính xác cao hơn; có trường hợp nội dung trong kết luận giám định lần đầu, với kết luận giám định lần sau mâu thuẫn nhau làm cho vấn đề trỏ nên phức tạp.
Viết bản kết luận giám định thế nào cho tốt còn phụ thuộc vào năng lực chuyên môn, năng lực thể hiện của Giám định viên. Chúng ta thấy cách thể hiện trong kết luận giám định cũng có ý nghĩa cần thiết dưới góc độ là những người sử dụng kết quả giám định thì nếu kết luận giám định thể hiện dưới dạng khẳng định thường tạo niềm tin cao cho người tiến hành tố tụng, trong đó có Thẩm phán. Thông thường, người tiến hành tố tụng chỉ bác bỏ, không chấp nhận nội dung kết luận giám định là chứng cứ của vụ án khi các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ có nhiều điểm rõ ràng trái ngược với kết luận giám định. Các kết luận dưới dạng khả năng thì việc công nhận nội dung kết luận giám định là chứng cứ của vụ án khi nó phù hợp với nhiều tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ.
Kết luận giám định là một trong nhiều loại chứng cứ mà đơn vị tiến hành tố tụng phải xem xét, đánh giá.
Khi kết luận giám định được thể hiện rõ ràng, thông qua một quy trình công tác khách quan có ý nghĩa đặc biệt cần thiết trong hệ thống các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, nó có ảnh hưỗng rất lổn đến tư duy và việc ra các quyết định của Thẩm phán nói riêng, của người tiến hành tố tụng nói chung. Trong các vụ án phức tạp, có nhiều tài liệu mâu thuẫn nhau, hoặc các tài liệu do đương sự gửi tới chưa đủ độ để định hình rõ nét sự thật trong quan hệ tranh chấp đó thì kết luận giám định gần như cổ vai trò là chứng cứ duy nhất quyết định, ví dụ như các bản giám định gen về việc xác định cha mẹ cho con, giám định nguyên nhân lún, nứt trong xây dựng, giám định niên đại cổ vật, V.V.. Tuy nhiên, không phải kết luận giám định nào cũng có sức nặng, sức chi phối như nhau, mà phụ thuộc vào nội dung của bản kết luận giám định, phương pháp, phương tiện giám định và sự phù hợp của các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ. Thông thường, các bản kết luận giám định có nội đung rõ ràng, thể hiện cách làm khoa học tỉ mỉ, chặt chẽ, khách quan, tính khẳng định trong kết luận giám định cao, có sự phù hợp ỏ mức độ nhất định vối các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thì thường củng cố niềm tin cho Thẩm phán, người tiến hành tố tụng khi ra quyết định.
Trên thực tiễn đối với những vụ việc phức tạp về tài liệu, chứng cứ mà kết luận giám định lại không rõ ràng hoặc phương pháp, phương tiện tiến hành giám định còn thủ công thì việc yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại hay xảy ra và thật phức tạp khi bản kết luận giám định sau lại khác biệt nhiều hoặc hoàn toàn mâu thuẫn với bản kết luận trước, sẽ đưa lại những nhận thức trái ngược cho người tiến hành tố tụng, tạo ra sự “dao động” trong niềm tin của người tiến hành tố tụng, vẫn biết rằng, nguyên nhân dẫn đến sự xung đột trong kết luận giám định thì rất nhiều, có khi chỉ là do sự biến đổi về chất của đối tượng giám định do không được bảo quản chu đáo, đúng cách hoặc chỉ đơn thuần là sự biến đổi theo thời gian do đối tượng giám định có diễn biến phức tạp ví dụ như chấn thương kín bên trong, chấn thương sọ não, V.V.. Nhưng cũng có thể do phương pháp giám định chưa thật khoa học, hoặc phương tiện, máy móc thực hiện giám định còn thô sơ hoặc mức độ tiên tiến có hạn dẫn đến những kết luận giám định khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Song, những mâu thuẫn trong kết luận giám định nhiều khi còn xuất phát từ phía con người, do người giám định đâ không tuân thủ nghiêm ngặt, chặt chẽ quy định, quy chuẩn giám định, hoặc do năng lực của người giám định hạn chế, họ không đủ khả nâng chuyên môn, nghiệp vụ để phân tích, kiến giải các thông tin thu được hoặc không vô tư, khách quan khi tiến hành giám định, điều đó sẽ đưa đến hậu quả là các bản kết luận giám định trước và kết luận giám định sau có nội dung mâu thuẫn nhau.
Trên đây là một số thông tin về nội dung Quy định về kết luận giám định trong hoạt động tố tụng dân sự. Nếu các bạn còn câu hỏi liên quan đến nội dung trên, hãy liên hệ với LVN Group để được hỗ trợ tư vấn trực tiếp.