Có thể thấy, hòa giải là trong các thủ tục phổ biến trong tố tụng dân sự, đã có rất nhiều vụ việc được giải quyết thông qua bước hòa giải. Vậy, thực trạng củahòa giải trong tố tụng dân sự là gì? Hãy cùng nghiên cứu trong nội dung trình bày này !.
Thực trạng vấn đề hòa giải trong tố tụng dân sự
1. Hòa giải là gì?
Theo Từ điển tiếng Việt, hòa giải là “hành vi thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa”.
Trên thực tiễn, biện pháp hòa giải là việc bên thứ ba xuất hiện có vai trò thuyết phục các bên tranh chấp tự giải quyết tranh chấp của mình một cách ổn thỏa. Thông thường, việc hoà giải được tiến hành sau khi thương lượng (khiếu nại) giữa các bên đã không đạt được kết quả.
Về bản chất, hòa giải là một biện pháp mềm dẻo, linh hoạt, hiệu quả giúp cho các bên tranh chấp tìm ra một phương pháp thống nhất để tháo gỡ mâu thuẫn, bắt đồng trong quan hệ pháp luật, nhất là trong lĩnh vực đất đai.
Hòa giải là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp truyền thống, phù hợp với tâm lý, tình cảm và văn hóa của người Việt Nam. Hòa giải có vai trò đặc biệt cần thiết, là nhu cầu và đòi hỏi của xã hội để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội. Với cách thức thân thiện, đồng thuận trên nguyên tắc chia sẻ, cảm thông, hòa giải góp phần hàn gắn những mâu thuẫn, rạn nứt, nâng cao ý thức pháp luật của người dân, ngăn ngừa các tranh chấp trong tương lai, tạo sự đồng thuận, xây dựng khối đoàn kết trong nhân dân, góp phần đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Hòa giải thành giúp giải quyết triệt để, hiệu quả các tranh chấp mà không phải đưa ra xét xử; kết quả hòa giải thành phần lớn được các bên tự nguyện thi hành, vụ việc được giải quyết nhanh chóng, tiết kiệm chi phí, thời gian, công sức của người dân và Nhà nước; hạn chế tranh chấp, khiếu kiện kéo dài, gây bức xúc trong dư luận. Vì vậy đối với Tòa án, đổi mới tăng cường và nâng cao hiệu quả hòa giải là giải pháp cơ bản, giúp giải quyết khối lượng công việc ngày càng nặng nề trong bối cảnh hàng năm các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính không ngừng tăng lên cả về số lượng và tính chất phức tạp.
Hòa giải theo từ điển Luật học được hiểu là “sự can thiệp, sự làm trung gian hòa giải, hành vi của người thứ ba làm trung gian giữa hai bên tranh chấp nhằm thuyết phục họ dàn xếp hoặc giải quyết tranh chấp giữa họ” . Theo nghĩa này thì hòa giải bao hàm cả việc giải quyết tranh chấp, bất đồng giữa các bên thông qua vai trò hướng dẫn, dàn xếp của bên thứ ba nhằm giúp các bên tranh chấp giải quyết được những bất đồng và đạt được một thỏa thuận phù hợp.
Tranh chấp giữa các bên được tự nguyện chấm dứt bằng cách thức thỏa thuận, tuy nhiên, nội dung hòa giải của các bên không trái đạo đức xã hội và quy định pháp luật. Không chỉ pháp luật Việt Nam mà pháp luật của nhiều nước trên thế giới (ví dụ như Đức, Nhật Bản, …) đều nhấn mạnh đến tính tự nguyện và tự định đoạt của các bên khi tham gia vào quá trình hòa giải. Một số chuyên gia cho rằng hòa giải là chế định pháp luật, là một nguyên tắc, trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án. Còn các nhà thực tiễn lại coi hòa giải là những hành vi thuyết phục các bên tranh chấp xóa bỏ những mâu thuẫn, bất đồng. Vì vậy, theo nghĩa chung nhất, hòa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp giữa các bên nhờ sự tác động của bên thứ ba đóng vai trò là trung gian hòa giải.
Hoặc cũng có thể định nghĩa hoà giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian hoà giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm mục đích loại trừ hanh chấp đã phát sinh.
2. Nguyên tắc tiến hành hòa giải
Căn cứ Điều 205 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 về nguyên tắc tiến hành hòa giải như sau:
– Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật này hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn.
– Việc hòa giải được tiến hành theo các nguyên tắc sau đây:
+ Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình;
+ Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Bên cạnh đó, theo Điều 206 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định những vụ án dân sự không được hòa giải:
– Yêu cầu đòi bồi thường vì lý do gây tổn hại đến tài sản của Nhà nước.
– Những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội.
3. Đặc điểm của hòa giải trong tố tụng dân sự
3.1 Hòa giải là hoạt động do Tòa án tiến hành
Trong quá trình hòa giải các vụ án dân sự nói chung, Tòa án được pháp luật quy định giữ vai trò trung gian tổ chức hòa giải giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án. Trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nói chung không chỉ là một nguyên tắc, thủ tục tố tục đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự mà còn đảm bảo tính pháp lý của hòa giải.
So với hòa giải do tổ hòa giải ở cơ sở, hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân dân cấp xã tiến hành… thì hòa giải do Tòa án tiến hành có những sự khác biệt như sau:
– Về căn cứ pháp lý: Hòa giải do Tòa án tiến hành được điều chỉnh bởi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Trong khi đó, hòa giải do tổ hòa giải ở cơ sở tiến hành được điều chỉnh bởi Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành; hòa giải do hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân dân cấp xã tiến hành thì được điều chỉnh bởi Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
– Về phạm vi hòa giải: Tòa án tiến hành hòa giải tất cả các tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại các điều 26, 28, 30, 32 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Phạm vi hòa giải của tổ hòa giải ở cơ sở được quy định cụ thể tại Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 và nghị định quy định chi tiết. Trong khi đó, hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân dân cấp xã chỉ hòa giải những tranh chấp đất đai (chủ yếu là tranh chấp về quyền sử dụng đất) mà các bên không tự hòa giải được.
– Về bản chất: Hoạt động hòa giải do Tòa án tiến hành là thủ tục tố tụng mang tính chất bắt buộc trong giải quyết các vụ án dân sự nói chung thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206, Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Trong khi đó, hoạt động hòa giải ở cơ sở là phương thức tổ chức giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp trên cơ sở khuyến khích, thuyết phục các bên tự nguyện thỏa thuận với nhau nhằm xóa bỏ mâu thuẫn, bất đồng, từ đó đạt được thỏa thuận phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội, góp phần xây dựng tinh thần đoàn kết trong nội bộ nhân dân, tương thân tương ái, giữ gìn đạo đức, tình làng nghĩa xóm, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư. Còn đối với hoạt động hòa giải trong giải quyết các tranh chấp đất đai do hội đồng hòa giải của Ủy ban nhân dân cấp xã tiến hành là một thủ tục có tính chất pháp lý bắt buộc, đây có thể được coi như là một giai đoạn tiền tố tụng để giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân hoặc đơn vị hành chính nhà nước có thẩm quyền.
– Về chủ thể tiến hành hòa giải: Hòa giải tại Tòa án do thẩm phán được phân công giải quyết vụ án tại Tòa án nhân dân cấp huyện hoặc hội đồng xét xử sơ thẩm (tại Tòa án nhân dân cấp huyện) và phúc thẩm (tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh) tiến hành. Còn hoạt động hòa giải ở cơ sở được thực hiện bởi các hòa giải viên thuộc các tổ hòa giải. Đối với hoạt động hòa giải trong giải quyết các tranh chấp đất đai do hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai thực hiện.
– Về hậu quả pháp lý: Đối với hoạt động hòa giải do Tòa án tiến hành thì nếu hòa giải thành thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành hoặc được ghi rõ vào biên bản phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm. Sau đó, thẩm phán được phân công giải quyết vụ án hoặc hội đồng xét xử sơ thẩm, phúc thẩm ra quyết định công nhận. Quyết định công nhận thỏa thuận của Tòa án có hiệu lực sau khi ban hành, không bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm và có giá trị pháp lý bắt buộc các bên đương sự, đơn vị hữu quan phải chấp hành và thi hành. Nếu hòa giải không thành thì đưa vụ án ra xét xử hoặc tiếp tục xét xử vụ án. Đối với hoạt động hòa giải ở cơ sở: Nếu hòa giải thành, các bên có thể thỏa thuận lập văn bản hòa giải thành; nếu hòa giải không thành thì các bên có quyền yêu cầu đơn vị, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo hướng dẫn của pháp luật. Còn đối với hoạt động hòa giải trong giải quyết các tranh chấp đất đai: Kết quả hòa giải tranh chấp đất đai phải được lập thành biên bản; đồng thời phải được gửi ngay cho các bên tranh chấp và lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã; nếu hòa giải thành thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định công nhận; nếu hòa giải không thành thì chuyển hồ sơ cho Tòa án tiếp tục giải quyết theo thẩm quyền.
3.2 Kết quả hòa giải thành là sự thỏa thuận của các đương sự
Việc thỏa thuận của đương sự chỉ đạt được trên cơ sở thương lượng một cách tự nguyện, trung thực, hợp tác và có thiện chí; phù hợp lợi ích của các bên nhưng không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Sự thỏa thuận của đương sự là đặc trưng cơ bản của hòa giải, thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết các tranh chấp, đồng thời cũng là điểm khác biệt giữa hòa giải và xét xử.
3.3 Hòa giải được tiến hành theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định
Hòa giải các vụ án dân sự nói chung phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng theo hướng dẫn của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành. Việc quy định trình tự, thủ tục hòa giải các vụ án dân sự nói chung đảm bảo tính khách quan, công bằng trong hoạt động hòa giải của Tòa án, đảm bảo sự bình đẳng của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án. Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về trình tự, thủ tục hòa giải là cơ sở để tiến hành hòa giải các vụ án dân sự và bắt buộc Tòa án, các đương sự tham gia hòa giải phải tuân theo hướng dẫn đó.
Hoạt động giải quyết vụ án dân sự nói chung của Tòa án phải tuân thủ theo nguyên tắc do pháp luật tố tụng dân sự quy định.
4. Thực trạng của hoạt động hòa giải trong tố tụng dân sự
Thứ nhất, về thời gian tiến hành phiên họp hòa giải
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành hiện nay không có quy định nào về thời gian mở phiên họp hòa giải. Khoản 1 Điều 205 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 chỉ quy định: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật này hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn.
Do đó, hiện nay, có quan điểm cho rằng, thời gian tiến hành hòa giải là khi nào Tòa án thu thập trọn vẹn chứng cứ và cần thiết để ra quyết định đưa vụ án ra xét xử nếu kết quả hòa giải không thành. Điều này sẽ hạn chế số lần đương sự phải đến Tòa án. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng, việc hòa giải là do thẩm phán được phân công giải quyết vụ án xem xét quyết định, tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể. Theo đó, công tác hòa giải cần phải được chuẩn bị kỹ càng, cần phải có sự kiên trì và chọn thời gian phù hợp.
Kinh nghiệm và thực tiễn công tác hòa giải tại Tòa án của các thẩm phán cho thấy, việc chọn thời gian để tiến hành mở phiên họp hòa giải có ý nghĩa cần thiết và mang tính quyết định. Chẳng hạn, một vụ án tranh chấp về ly hôn, nếu sau khi thụ lý, Tòa án tiến hành mời các đương sự hòa giải ngay thì có thể hòa giải thành theo hướng các đương sự thuận tình ly hôn hoặc không thành do bị đơn không đồng ý ly hôn. Tuy nhiên, mâu thuẫn của vợ chồng là đương sự trong vụ án không lớn, có thể là một chút giận hờn hoặc nhằm ly hôn cho bên kia biết “sợ” mà sửa đổi tính tình thì thẩm phán không nên vội mời hòa giải ngay mà cần nghiên cứu rõ nguyên nhân mâu thuẫn, trao đổi riêng với từng đương sự, nghiên cứu tâm tư, động viên phân tích để họ đoàn tụ, như vậy, nhiều khả năng nguyên đơn sẽ rút lại đơn khởi kiện. Hay một vụ án tranh chấp đất đai, do các đương sự đã có nhiều mâu thuẫn, qua hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã thì họ đã không muốn thương lượng giải quyết.
Do đó, nếu Tòa án vừa thụ lý đã mời hòa giải thì kết quả hòa giải thành là không cao. Tuy nhiên, nếu thẩm phán nghiên cứu rõ nguyên nhân mâu thuẫn, thu thập các tài liệu chứng cứ cần thiết, đồng thời đưa ra nhiều phương án để đương sự suy nghĩ và lựa chọn thì kết quả hòa giải thành sẽ cao hơn.
Thứ hai, về thời gian bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập
Theo quy định tại khoản 3 Điều 200 và khoản 2 Điều 202 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có thể hiểu là Tòa án chỉ được thụ lý và xem xét giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước khi Tòa án mở phiên họp hòa giải. Tuy nhiên, quy định trên không được rõ ràng ở chỗ, trong một vụ án dân sự nói chung thì Tòa án thường mở nhiều phiên họp hòa giải, do đó, nếu tại phiên họp hòa giải lần thứ hai mà bị đơn mới nộp đơn yêu cầu phản tố, đơn yêu cầu độc lập thì Tòa án có được thụ lý được không?
Có quan điểm cho rằng, Tòa án không được thụ lý vì không đảm bảo quy định tại các điều khoản nêu trên. Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng, Tòa án vẫn phải xem xét thụ lý yêu cầu của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bởi lẽ, yêu cầu của họ là gắn với yêu cầu của đương sự khác trong vụ án, nên nếu không thụ lý trong cùng vụ án sẽ không thể giải quyết triệt để vụ án và gây tốn kém, kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp giữa các đương sự nếu thụ lý yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập trong vụ án khác nữa.
Thứ ba, tại phiên họp hòa giải, bị đơn có đơn xin vắng mặt nhưng đã gửi văn bản cho Tòa án có ý kiến đồng ý toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn và chấp nhận chịu toàn bộ án phí thì Tòa án có được quyền lập biên bản hòa giải thành và sau đó là ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự
Khoản 5 Điều 211 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án dân sự thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành. Biên bản này được gửi ngay cho các đương sự tham gia hòa giải”. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy vẫn có trường hợp vụ án chỉ có đương sự là nguyên đơn và bị đơn, tại phiên họp hòa giải, bị đơn có đơn xin vắng mặt nhưng đã gửi văn bản cho Tòa án có ý kiến đồng ý toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn và chấp nhận chịu toàn bộ án phí thì Tòa án có được quyền lập biên bản hòa giải thành và sau đó là ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự được không thì hiện nay còn có các quan điểm khác nhau.
Có quan điểm cho rằng, nếu bị đơn vắng mặt thì Tòa án lập biên bản không hòa giải được theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và tiến hành đưa vụ án ra xét xử. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng, Tòa án có quyền lập biên bản hòa giải thành, sau đó, gửi biên bản hòa giải thành cho bị đơn, nếu hết thời gian 07 ngày công tác kể từ ngày bị đơn nhận được bản sao biên bản hòa giải thành mà bị đơn không có ý kiến bằng văn bản về việc thay đổi nội dung thỏa thuận thì Tòa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự theo hướng dẫn của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Trên đây là một số thông tin về nội dung thực trạng của hòa giải trong tố tụng dân sự. Nếu các bạn còn câu hỏi liên quan đến nội dung trên, hãy liên hệ với LVN Group để được hỗ trợ tư vấn trực tiếp.