Hiến pháp năm 1992 đã để lại nhiều vấn đề có ý nghĩa và giá trị tốt đẹp. Đặc biệt, Hiến pháp là cơ sở khoa học để đổi mới nền kinh tế, từng bước đổi mới hệ thống chính trị, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện và đổi mới hệ thống các đơn vị tư pháp và hoạt động tư pháp.
1. Bối cảnh sự ra đời Hiến pháp năm 1992
Vào hồi 11 giờ 45 phút ngày 15-4-1992, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, Kỳ họp thứ 11 đã biểu quyết nhất trí thông qua Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp gồm Lời nói đầu, 12 chương, 147 điều. Theo Nghị quyết của Quốc hội, Hiến pháp có hiệu lực thi hành ngay từ ngày Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (nay là Chủ tịch nước) ban hành lệnh công bố – ngày 18-4-1992. Sau 9 năm thực hiện, Quốc hội khóa X, Kỳ họp thứ 10 đã ra Nghị quyết số 51/2001/QH10, ngày 25-12-2001, sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) và văn kiện các đại hội của Đảng (khóa VI, 1986-1991; khóa VII, 1991-1996). Việc sửa đổi, bổ sung gồm Lời nói đầu, 23 điều và bỏ khoản 8 của Điều 91, với số chương, số điều vẫn như trước. Sau 10 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001), Quốc hội khóa XIII, Kỳ họp thứ nhất, ngày 6-8-2011, đã ra Nghị quyết số 06/2002/QH13 sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 lần thứ hai trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và văn kiện Đại hội XI của Đảng.
2. Ý nghĩa và giá trị cơ bản của Hiến pháp năm 1992
Theo tiến trình sửa đổi, bổ sung đã định, tới Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII (tháng 10-2013), đất nước ta sẽ có bản Hiến pháp mới. Vì vậy, Hiến pháp năm 1992 có thời gian hiệu lực dài nhất (22 năm) so với các bản hiến pháp trước. Cho tới nay, Hiến pháp năm 1992 đã để lại nhiều vấn đề có ý nghĩa và giá trị tốt đẹp, như: các nguyên tắc của Hiến pháp; Hiến pháp thể hiện cách mạng phát triển không ngừng; tính hiện thực của Hiến pháp; Hiến pháp là cơ sở khoa học để đổi mới nền kinh tế, từng bước đổi mới hệ thống chính trị, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện và đổi mới hệ thống các đơn vị tư pháp và hoạt động tư pháp… Dưới đây là một số vấn đề đáng quan tâm nhất.
Hiến pháp năm 1992 là cột mốc cần thiết của lịch sử lập hiến Việt Nam
Nếu Hiến pháp năm 1946 là hiến pháp đầu tiên của cuộc cách mạng dân chủ nhân dân, của một xã hội tự do, dân chủ và tiến bộ đầu tiên ở Đông Nam Á; Hiến pháp năm 1959 ghi nhận bước thứ hai của lịch sử lập hiến Việt Nam, là bản hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Hiến pháp năm 1980 là hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, thì Hiến pháp năm 1992 là cột mốc thứ tư của lịch sử lập hiến Việt Nam – hiến pháp của công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc cả xã hội, bắt đầu từ đổi mới nền kinh tế và từng bước đổi mới vững chắc về chính trị. Hiến pháp năm 1992 kế thừa những tinh hoa, giá trị bền vững của ba bản hiến pháp trước đó, tuy nhiên, đây là bản hiến pháp đầu tiên vận dụng trọn vẹn, nhuần nhuyễn, sáng tạo nhất (kể từ khi lập hiến đến nay) các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (lần đầu tiên văn kiện Đại hội VII của Đảng đã ghi rõ tư tưởng Hồ Chí Minh) về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Hiến pháp năm 1992 là mốc son của việc xây dựng và phát triển ngày càng vững chắc nền tảng kinh tế – xã hội của nước ta từ thập niên cuối cùng của thế kỷ XX cho đến hiện tại. Nó là tấm gương phản chiếu những đổi mới trong tư tưởng lập hiến và lập pháp của nhân dân Việt Nam. Đó là bản hiến pháp thể hiện tính độc lập, tự chủ trong tiến trình của nền triết học pháp quyền Việt Nam, một nền triết học pháp quyền thể hiện sâu sắc bản sắc dân tộc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn tính quốc tế và tính thời đại trên cơ sở phát huy những tinh hoa trí tuệ của nền văn hóa pháp lý Việt Nam và sự tiếp thu tinh hoa văn hóa pháp lý của nhân loại.
Hiến pháp năm 1992 có vị trí trung tâm trong hệ thống pháp luật hiện hành
Đây là đặc điểm chính trị – pháp lý đầu tiên của hiến pháp nói chung, Hiến pháp năm 1992 nói riêng. Điều 146 Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định:
“Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp”.
Đặc điểm chính trị – pháp lý nói trên còn thể hiện ở những nội dung cần thiết sau: Hiến pháp là văn bản có tính chất cơ bản, nền tảng nhất; có tính chất khái quát cao nhất; có tính chất phổ quát nhất; có tính chất xác định và khẳng định mạnh mẽ nhất; có tính chất ổn định cao và lâu dài nhất; được thừa nhận tuyệt đối nhất so với tất cả các loại văn bản pháp luật khác; quy định có tính chất cô đọng nhất, hoàn chỉnh nhất và đồng bộ nhất.
Hiến pháp năm 1992 vừa kế thừa, vừa phát triển các quan điểm của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới. Nếu Hiến pháp năm 1946 mới chỉ dựa trên 3 nguyên tắc như đã trình bày, thì Hiến pháp năm 1992 đã được hiến định trọn vẹn các nguyên tắc, các quan điểm của Đảng trong đường lối đổi mới, đó là: chủ quyền quốc gia, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; đại đoàn kết toàn dân tộc; tất cả quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; xây dựng và phát triển nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết vĩ mô (có sự quản lý của Nhà nước), và sau này là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy dân chủ, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền tự do cơ bản của công dân, Nhà nước đóng vai trò cần thiết trong xã hội; mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; phải điều hành, quản lý Nhà nước và xã hội theo Hiến pháp, pháp luật, xã hội phải có kỷ cương; tập trung dân chủ, có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị nhà nước trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; bộ máy hành chính và quyền lực được tổ chức theo lãnh thổ, vừa bảo đảm tập trung, thống nhất, vừa bảo đảm tính chủ động, sáng tạo cho địa phương và cơ sở.
Hiến pháp năm 1992 thể hiện tính pháp lý, tính hiện thực cao
Nếu các hiến pháp trước đó có nhược điểm là còn thiếu vắng những sự điều chỉnh cần thiết, hoặc vừa lạc hậu trong điều chỉnh, vừa có những điều chỉnh “thiếu tính khả thi”, thì Hiến pháp năm 1992 – một văn bản chính trị – pháp lý đã khắc phục được căn bản các nhược điểm đó. Trước hết, đã khẳng định một cách rõ ràng, mạch lạc vai trò và giá trị của luật pháp trong đời sống xã hội. Điều 12khẳng định rất rõ ràng:
“Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các đơn vị nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật”.
Với tinh thần thượng tôn pháp luật, trên cơ sở những giá trị đích thực và khả năng to lớn của hiến pháp, Hiến pháp năm 1992 đã tạo nền móng cho việc xây dựng và đổi mới công tác pháp luật theo hướng có hệ thống, đồng bộ và cách thức điều chỉnh hợp lý, tương thích với từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Từ khi Hiến pháp năm 1992 được ban hành đến nay đã trải qua bốn khóa Quốc hội (từ khóa IX đến hết khóa XII), Quốc hội đã thông qua được 227 luật, bộ luật và Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành được 135 pháp lệnh. Các luật, bộ luật và pháp lệnh đó đã kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, góp phần cần thiết vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, phục vụ có hiệu quả cho việc điều hành, quản lý đất nước, phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới thắng lợi.
Hiến pháp năm 1992 là nền tảng để hoàn thiện hệ thống các đơn vị tư pháp và cải cách tư pháp
Rất đáng tự hào về hoạt động tư pháp của nước ta là, ngay từ Hiến pháp năm 1946, Nhà nước ta đã có hệ thống các đơn vị tư pháp. Điều 63 Hiến pháp năm 1946 quy định:
“Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm có:
a) Tòa án tối cao.
b) Các tòa án phúc thẩm.
c) Các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp”.
Các hiến pháp năm 1959 và 1980 tiếp tục quy định hệ thống các đơn vị tư pháp, nhưng hoàn thiện hơn một bước, bao gồm tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân. Các đơn vị này có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân lao động, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự tôn trọng tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Trong các tòa án, có Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa phương, các tòa án quân sự. Tương tự như vậy, có Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các viện kiểm sát nhân dân địa phương và các viện kiểm sát quân sự.
Hiến pháp năm 1992 đã tạo cơ sở để các đơn vị tư pháp tiếp tục phát triển và hoàn thiện. Theo quy định của Điều 127:
“Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa phương, các tòa án quân sự và các tòa án khác do luật định là những đơn vị xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập tòa án đặc biệt…”.
Trên nền móng đó, đến năm 2002, bộ máy các đơn vị tư pháp đã được hoàn thiện ở một trình độ cao. Tòa án nhân dân tối cao bao gồm: Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự Trung ương, Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính và các tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao. Trong trường hợp cần thiết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bao gồm: Ủy ban thẩm phán; Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính. Trong trường hợp cần thiết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Dưới tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có các tòa án của quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Các tòa án quân sự gồm có: Tòa án quân sự Trung ương; tòa án quân sự quân khu và tương đương; tòa án quân sự khu vực. Tương ứng, hệ thống viện kiểm sát nhân dân gồm có: Viện kiểm sát nhân dân tối cao; các viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các viện kiểm sát quân sự (Viện kiểm sát quân sự Trung ương, viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, viện kiểm sát quân sự khu vực).
Nếu trước năm 1992, hệ thống pháp luật phục vụ cho hoạt động tư pháp còn tương đối eo hẹp, thì từ tháng 5-1992 đến nay, hệ thống pháp luật này đã khá trọn vẹn, phong phú và tiếp tục được hoàn thiện, bao gồm các đạo luật: Luật Tổ chức tòa án nhân dân; Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân (tháng 10-1992); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự (tháng 12-1992); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức tòa án nhân dân; Bộ luật Dân sự (tháng 10-1995); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự (tháng 5-1997); Bộ luật Hình sự (tháng 12-1997); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự (tháng 6-2000); Luật Tổ chức tòa án nhân dân; Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân (tháng 4-2002); Bộ luật Tố tụng hình sự (tháng 11-2003); Bộ luật Tố tụng dân sự (tháng 6-2004); Bộ luật Dân sự (tháng 6-2005), và nhiều luật khác có liên quan như Luật Hôn nhân và gia đinh; Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự (tháng 8-2004); Pháp lệnh Giám định tư pháp (tháng 1-2005)… Với hệ thống tổ chức bộ máy và hệ thống pháp luật đó, hoạt động tư pháp đang phấn đấu và ngày càng đạt được mục tiêu hàng đầu là “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, như Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2-6-2005, của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đã chỉ rõ.
Hiến pháp năm 1992 là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc mở rộng và phát triển nền ngoại giao sáng tạo Việt Nam trong tình hình thế giới biến đổi khôn lường
Điều 14 Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng; tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”.
So với các hiến pháp trước, đây là cách tiếp cận có tính hệ thống, tổng thể, bao quát đối với tất cả các nước trên thế giới, thay vì cách tiếp cận bộ phận trên cơ sở hệ tư tưởng xưa kia. Cách tiếp cận này phản ánh xu thế hội nhập khu vực cũng như hòa nhập quốc tế. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta từ sau Hiến pháp năm 1992 ngày càng được hoàn thiện và đem lại hiệu quả thiết thực. Nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng với các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị – xã hội nhưng vẫn giữ vững và phát huy mạnh mẽ bản sắc riêng có của đất nước, của dân tộc Việt Nam. Chúng ta coi mục tiêu đối ngoại là góp phần củng cố môi trường quốc tế để phát triển kinh tế; lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế – xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước. Trong chỉ đạo chính sách đối ngoại, Đảng, Nhà nước ta kiên định nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội theo đúng tinh thần Hiến pháp, đồng thời phải sáng tạo, năng động, linh hoạt về sách lược. Nếu tại Đại hội VII, Đảng ta đã nêu ra quan điểm Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển; đến Đại hội IX được bổ sung: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước cộng đồng quốc tế; thì đến Đại hội XI, Đảng ta khẳng định tiếp: “Thực hiện nhất cửa hàng đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”(1).
Kết quả khả quan là, công tác đối ngoại nhanh chóng được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, góp phần tạo ra thế và lực mới cho đất nước; phát triển quan hệ tốt đẹp với các nước láng giềng; thiết lập và nâng cấp quan hệ với nhiều đối tác cần thiết; tham gia có hiệu quả vào nhiều diễn đàn khu vực và quốc tế; đảm nhiệm tốt vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc; đóng góp cần thiết vào việc xây dựng cộng đồng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Hiến chương ASEAN, đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch Hội đồng liên nghị viện các nước Đông Nam Á (AIPA). Đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 173 nước trên thế giới, trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới, ký hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương với một số đối tác cần thiết; tăng cường và phát triển quan hệ với nhiều đối tác khác; thu hút đầu tư nước ngoài với số lượng khá, tranh thủ vốn hỗ trợ phát trển chính thức (ODA) và các nguồn tài trợ quốc tế khác ngày càng lớn. Có thể nói, ngoại giao kinh tế có bước phát triển khá tốt đẹp…
Trung thành vô hạn với chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng, nêu cao ý chí tự lực, tự cường xây dựng đất nước, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước, tuân thủ thi hành Hiến pháp năm 1992 và đã giành được những thắng lợi vĩ đại trong một phần tư thế kỷ của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp năm 1992 đã và đang làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình.
3. Điều 1 Hiến pháp 1992
Điều 1
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời.