Hiệu lực của hợp đồng bảo đảm, biện pháp bảo đảm

Để tạo được thế chủ động cho người có quyền trong các quan hệ nghĩa vụ được hưởng quyền dân sự, pháp luật cho phép các bên có thể thỏa thuận đặt ra các biện pháp bảo đảm việc giao kết hợp đồng, cũng như việc thực hiện nghĩa vụ. Vì vậy, việc đăng ký biện pháp đảm bảo có ý nghĩa vô cùng cần thiết trong việc đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ đối với các bên tham gia quan hệ nghĩa vụ. Vậy Hiệu lực của hợp đồng bảo đảm, biện pháp bảo đảm? Hãy cùng LVN Group nghiên cứu qua nội dung trình bày dưới đây!

Hiệu lực của hợp đồng bảo đảm, biện pháp bảo đảm

1. Khái quát chung về biện pháp bảo đảm

1.1. Biện pháp bảo đảm là gì?

Điều 292 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

“Điều 292. Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bao gồm:

1. Cầm cố tài sản.

2. Thế chấp tài sản.

3. Đặt cọc.

4. Ký cược.

5. Ký quỹ.

6. Bảo lưu quyền sở hữu.

7. Bảo lãnh.

8. Tín chấp.

9. Cầm giữ tài sản.”

Khi các bên lựa chọn một trong các biện pháp này để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì giữa họ phát sinh một quan hệ pháp luật. Việc xác lập biện pháp bảo đảm giữa các chủ thể với nhau dược thực hiện thông qua một giao dịch dân sự, vì thế giao dịch dân sự này được gọi là giao dịch bảo đảm được gọi là quan hệ bảo đảm. Vì vậy, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được hiểu theo hai phương diện:

+ Về mặt khách quan: Là sự quy định của pháp luật về các biên pháp để bảo đảm cho một nghĩa vụ chính được thực hiện đồng thời xác định và bảo đảm quyền, nghĩa vụ của các bên trong các biện pháp đó.

+ Về mặt chủ quan: Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là việc thỏa thuận giữa các bên về việc lựa chọn sử dụng một trong các biện pháp đã được pháp luật quy định để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự với tính chất tác động, dự phòng để bảo; đồng thời ngăn ngừa và khắc phục những hậu quả xấu do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ gây ra.

1.2. Đặc điểm của các biện pháp bảo đảm

Thứ nhất, các biện pháp bảo đảm mang tính chất bổ sung cho nghĩa vụ chính.

Thứ hai, các biện pháp bảo đảm đều có mục địch nâng cao trách nhiệm của các bên trong quan hệ nghĩa vụ.

Thứ ba, đối tượng của các biện pháp bảo đảm là những lợi ích vật chất.

Thứ tư, phạm vi bảo đảm của các biện pháp bảo đảm không vượt quá phạm vi nghĩa vụ đã được xác định trong nội dung của quan hệ nghĩa vụ chính.

2. Quy định pháp luật về hiệu lực của biện pháp bảo đảm

Điều 22 Nghị định 21/2020/NĐ-CP về biện pháp bảo đảm quy định:

“Điều 22. Hiệu lực của hợp đồng bảo đảm

1. Hợp đồng bảo đảm được công chứng, chứng thực theo hướng dẫn của Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan hoặc theo yêu cầu thì có hiệu lực từ thời gian được công chứng, chứng thực.

2. Hợp đồng bảo đảm không thuộc khoản 1 Điều này có hiệu lực từ thời gian do các bên thỏa thuận. Trường hợp không có thỏa thuận thì có hiệu lực từ thời gian hợp đồng được giao kết.

3. Trường hợp tài sản bảo đảm được rút bớt theo thỏa thuận thì phần nội dung hợp đồng bảo đảm liên quan đến tài sản được rút bớt không còn hiệu lực; tài sản bảo đảm được bổ sung hoặc thay thế thì việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng bảo đảm liên quan đến tài sản này thực hiện theo hướng dẫn của Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan.

4. Biện pháp bảo đảm chưa phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba không làm thay đổi hoặc không làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng bảo đảm.”

3. Một số vấn đề về liên quan đến hiệu lực của biện pháp bảo đảm

2.1. Biện pháp bảo đảm có hiệu lực tại thời gian nào?

Điều 385 Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”

Căn cứ theo hướng dẫn này và hướng dẫn của Nghị định 21/2020/NĐ-CP thì giao dịch bảo đảm có hiệu lực theo một trong các thời gian sau đây:

Thứ nhất, nếu các bên không có thỏa thuận khác và pháp luật cũng không có quy định khác về thời gian có hiệu lực của biện pháp bảo đảm thì biện pháp bảo đảm được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời gian giao kết. Ví dụ, hai bên xác lập một giao dịch đặt cọc để bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng mua bán nhà ở. Trong đó, các bên không thỏa thuận về thời gian có hiệu lực của giao dịch đặt cọc và pháp luật cũng không có quy định riêng về thời gian có hiệu lực của việc đặt cọc. Tuy nhiên, theo pháp luật hiện hành có quy định việc đặt cọc phải được lập thành văn bản. Do đó, thời gian có hiệu lực của giao dịch đặt cọc này là thời gian bên sau cùng ký vào văn bản đặt cọc (thời gian giao kết giao dich bằng văn bản không có công chứng, chứng thực).

Thứ hai, nếu các bên có thỏa thuận khác về thời gian có hiệu lực của biện pháp bảo đảm thì thời gian có hiệu lực của biện pháp bảo đảm được xác định theo sự thỏa thuận đó. Đây là trường hợp các bên thỏa thuận để xác định thời gian có hiệu lực của giao dịch bảo đảm khác với thời gian giao kết giao dịch đó. Thời điểm này có thể là một ngày cụ thể, có thể là thời gian các bên chuyển giao tài sản bảo đảm cho nhau. Chẳng hạn như, các bên có thỏa thuận thời gian hiệu lực của giao dịch đặt cọc là: sau bao nhiêu ngày kể từ ngày giao kết, có hiệu lực từ thời gian bên nhận đặt cọc được quyết định chuyện công tác, có hiệu lực từ thời gian bên đặt cọc đã giao tài sản đặt cọc cho bên nhận đặt cọc,…

Thứ ba, nếu có quy định riêng về thời gian có hiệu lực của biện pháp bảo đảm thì thời gian có hiệu lực của biện pháp bảo đảm phải xác định theo hướng dẫn của pháp luật. Căn cứ, hợp đồng bảo đảm được công chứng, chứng thực thì có hiệu lực từ thời gian được công chứng, chứng thực.

Thứ tư, nếu tài sản bảo đảm được rút bớt theo thỏa thuận thì phần nội dung hợp đồng bảo đảm liên quan đến tài sản được rút bớt không còn hiệu lực; tài sản bảo đảm được bổ sung hoặc thay thế thì việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng bảo đảm liên quan đến tài sản này thực hiện theo hướng dẫn của Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan.

2.2. Hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm

Căn cứ Điều 297 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

“Điều 297. Hiệu lực đối kháng với người thứ ba

1. Biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm.

2. Khi biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì bên nhận bảo đảm được quyền truy đòi tài sản bảo đảm và được quyền thanh toán theo hướng dẫn tại Điều 308 của Bộ luật này và luật khác có liên quan.”

Có thể thấy, biện pháp bảo đảm được giao kết hợp pháp có hiệu lực bắt buộc đối với các bên tham gia giao dịch đó từ thời gian có hiệu lực (thời gian giao kết, thời gian thỏa thuận, thời gian pháp luật quy định riêng). Vì vậy, ngay cả các giao dịch không đăng ký biện pháp bảo đảm (không thuộc trường hợp bắt buộc phải đăng ký) vẫn phát sinh hiệu lực giữa các bên. Tuy nhiên, biên pháp bảo đảm chỉ có giá trị pháp lý đối với người thứ ba thì các bên tham gia giao dịch phải đăng ký giao dịch đó dù không thuộc trường hợp bắt buộc phải đăng ký.

Căn cứ, thời gian phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba được quy định tại Điều 23 Nghị định 21/2020/NĐ-CP:

“Điều 23. Hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm với người thứ ba

1. Biện pháp bảo đảm chỉ phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba trong trường hợp hợp đồng bảo đảm đã có hiệu lực pháp luật.

2. Trường hợp biện pháp bảo đảm phải đăng ký theo hướng dẫn của Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan hoặc được đăng ký theo thỏa thuận hoặc được đăng ký theo yêu cầu của bên nhận bảo đảm thì thời gian đăng ký tại đơn vị có thẩm quyền theo hướng dẫn của pháp luật liên quan là thời gian biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba.

3. Trường hợp không thuộc khoản 2 Điều này thì hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp cầm cố tài sản, đặt cọc, ký cược phát sinh từ thời gian bên nhận bảo đảm nắm giữ tài sản bảo đảm.

Nắm giữ tài sản bảo đảm quy định tại khoản này là việc bên nhận bảo đảm trực tiếp quản lý, kiểm soát, chi phối tài sản bảo đảm hoặc là việc người khác quản lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận hoặc theo hướng dẫn của pháp luật nhưng bên nhận bảo đảm vẫn kiểm soát, chi phối được tài sản này.

4. Trường hợp tài sản bảo đảm thuộc biện pháp bảo đảm quy định tại khoản 3 Điều này được giao cho người khác quản lý thì hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm với người thứ ba phát sinh từ thời gian:

a) Bên nhận cầm cố, bên nhận đặt cọc hoặc bên nhận ký cược nắm giữ tài sản bảo đảm;

b) Người quản lý tài sản nhận trực tiếp tài sản bảo đảm từ bên cầm cố, bên đặt cọc hoặc bên ký cược;

c) Hợp đồng bảo đảm có hiệu lực trong trường hợp người khác đang quản lý trực tiếp tài sản mà tài sản này được dùng để cầm cố, để đặt cọc hoặc để ký cược.

5. Hiệu lực đối kháng của biện pháp ký quỹ với người thứ ba phát sinh từ thời gian tài sản ký quỹ được gửi vào tài khoản phong tỏa tại tổ chức tín dụng nơi ký quỹ.”

2.3. Quan hệ giữa giao dịch bảo đảm và hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm

Điều 29 Nghị định 21/2020/NĐ-CP quy định:

“Điều 29. Quan hệ giữa hợp đồng bảo đảm với hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm

1. Hợp đồng bảo đảm bị vô hiệu hoặc bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm.

2. Trường hợp hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị vô hiệu hoặc bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì giải quyết như sau:

a) Các bên chưa thực hiện hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì hợp đồng bảo đảm chấm dứt;

b) Các bên đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì hợp đồng bảo đảm không chấm dứt. Bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thanh toán nghĩa vụ hoàn trả của bên có nghĩa vụ đối với mình.”

Thông thường, một biện pháp bảo đảm thường được xác lập bên cạnh một hợp đồng khác để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó. Bởi thế, khi xét về vai trò giữa chúng đối với nhau thì giao dịch bảo đảm có thể được coi là một hợp đồng phụ, hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm được coi là hợp đồng chính.

Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự chỉ có ý nghĩa khi hợp đồng chính có hiệu lực pháp luật hoặc bị vô hiệu nhưng hợp đồng đã được thực hiện toàn bộ hoặc một phần. Vì vậy, ngoài việc phải giao kết hợp pháp, tính hiệu lực của biện pháp bảo đảm còn phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm và tình trạng thực hiện hợp đồng đó. Ngược lại, hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm được coi là hợp đồng chính nên hiệu lực pháp luật của nó không phụ thuộc vào hiệu lực của biện pháp bảo đảm.

Trên đây là Hiệu lực của hợp đồng bảo đảm, biện pháp bảo đảm mà LVN Group muốn giới thiệu đến quý bạn đọc. Hi vọng nội dung trình bày sẽ hỗ trợ và giúp ích cho quý bạn đọc về vấn đề này!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com