Ủy quyền là việc giao cho một người khác thay mặt mình sử dụng quyền mà mình có được một cách hợp pháp. Quan hệ ủy quyền thường là quan hệ giữa cá nhân với nhau mang tính chất tương trợ, giúp đỡ. Một trong các cách thức pháp lí của ủy quyền là hợp đồng ủy quyền. Luật LVN Group xin gửi đến quý bạn đọc nội dung trình bày về Một số pháp lý về hợp đồng uỷ quyền.
1. Hợp đồng ủy quyền là gì?
Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên; theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền; bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Một điểm đặc chung của hệ thống pháp luật Việt Nam là chế định hợp đồng ủy quyền nói chung và khái niệm hợp đồng ủy quyền nói riêng đều chịu ảnh hưởng của khái niệm uỷ quyền. Xét về tính hệ thống của bộ luật dân sự, hợp đồng ủy quyền là một trong những căn cứ của uỷ quyền với tên gọi uỷ quyền theo ủy quyền.
Dựa vào bản chất và quy định của pháp luật, có thể đưa ra khái niệm hợp đồng ủy quyền như sau: hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận song phương; trong đó một bên (gọi là bên ủy quyền) chuyển giao cho bên còn lại (gọi là bên được ủy quyền) các quyền của mình do luật định; để người đó thay mặt mình thực hiện một số công việc nào đó phù hợp với quyền hạn và quy định của pháp luật.
2. Đặc điểm của hợp đồng ủy quyền
- Hợp đồng uỷ quyền là hợp đồng song vụ. Bên uỷ quyền có quyền yêu câu bên được uỷ quyền thực hiện đúng phạm vi uỷ quyền; và có nghĩa vụ gửi tới thông tin, các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện công việc của bên uỷ quyền. Bên được uỷ quyền phải thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ được uỷ quyền trong quan hệ với người thứ ba.
- Hợp đồng ủy quyền mang tính chất nhân thân của các chủ thể. Biểu hiện: Hợp đồng ủy quyền sẽ chấm dứt khi một trong hai bên là cá nhân chết hoặc pháp nhân không tồn tại; các bên có thể đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền bất kỳ lúc nào; Bên ủy quyền muốn ủy quyền lại phải có sự đồng ý của bên ủy quyền bằng văn bản.
- Hợp đồng uỷ quyền là hợp đồng có đền bù hoặc không có đền. Nếu bên thực hiện việc uỷ quyền nhận thù lao; thì hợp đồng uỷ quyền là hợp đồng có đền bù. Nếu bên thực hiện việc uỷ quyền không nhận thù lao mà thực hiện công việc uỷ quyền mang tính chất giúp đỡ, tương trợ bên uỷ quyền; thì đó là hợp đồng không có đền bù.
3. Chủ thể trong hợp đồng ủy quyền
Chủ thể của hợp đồng ủy quyền không được các nhà làm luật quy định tại chế định hợp đồng ủy quyền; mà được quy định tại chế định rộng và bao trùm hơn, đó là chế định uỷ quyền. Điều 138 BLDS 2015 quy đã quy định rõ về uỷ quyền theo ủy quyền. Quy định này nêu lên các trường hợp uỷ quyền theo ủy quyền nhưng đã chứa đựng nội dung chủ thể trong đó; tựu chung lại chủ thể của hợp đồng ủy quyền gồm: cá nhân và pháp nhân.
Đối với hộ gia đình, tổ hợp tác và các chủ thể khác không có tư cách pháp nhân; thì việc giao kết hợp đồng ủy quyền thực chất là việc từng thành viên, chính là các cá nhân tạo thành một nhóm cá nhân cùng nhất cửa hàng ý chí để ủy quyền cho một cá nhân khác uỷ quyền cho quyền lợi chung của nhóm cá nhân này thực hiện một hoặc nhiều công việc được ủy quyền nhất định nào đó.
Vì vậy, chủ thể của hợp đồng ủy quyền trong bộ luật dân sự là Bên ủy quyền và bên được ủy quyền.
4. Thời hạn ủy quyền
Đối với Hợp đồng ủy quyền, thời hạn ủy quyền là một nội dung có ý nghĩa rất cần thiết. Bởi chính thời hạn sẽ ràng buộc cụ thể về khoảng thời gian mà bên ủy quyền tiến hành ủy quyền cho bên nhận ủy quyền nhân danh mình giao kết; hoặc thực hiện các giao dịch dân sự. Thời hạn của hợp đồng ủy quyền được quy định tại Điều 563 Bộ luật dân sự 2015:
Điều 563. Thời hạn ủy quyền
Thời hạn ủy quyền do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định; nếu không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực 01 năm; kể từ ngày xác lập việc ủy quyền.
Phải khẳng định rằng, thời hạn ủy quyền là một nội dung tất yếu không thể thiếu được trong giao kết về hợp đồng ủy quyền. Nếu chúng ta bỏ ngỏ hoặc dẫn chiếu đến nội dung quy định về thời hạn của một giao dịch khác khi đó sẽ không đảm bảo về giá trị cũng như tính khả thi trong quá trình vân dụng trên thực tiễn. Đồng thời, chúng ta cần phải làm rõ ngày xác lập ủy quyền là ngày nào, theo quan điểm của một số nhà làm luật thì “ngày xác lập ủy quyền là ngày các bên tiến hành giao kết hợp đồng ủy quyền; trừ trường hợp hợp đồng ủy quyền phải lập thành văn bản và bắt buộc có công chứng, chứng thực thì có hiệu lực từ ngày được công chứng, chứng thực”.
5. Ủy quyền lại
Để phòng trường hợp bên được ủy quyền không hoàn thành được công việc ủy quyền theo đúng thời gian; tiến độ, chất lượng công việc như mong muốn ban đầu của bên ủy quyền; bên ủy quyền có thể cho phép người thứ ba tiếp tục thay mặt bên được ủy quyền thực hiện công việc mà bên ủy quyền đã ủy quyền cho bên được ủy quyền. Việc ủy quyền lại này phải được bên ủy quyền đồng ý; và thể hiện rõ trong nội dung của hợp đồng ủy quyền ngay từ khi giao kết hợp đồng. Bởi đây là căn cứ để bên được ủy quyền ủy quyền lại cho người thứ ba; và cũng là căn cứ để người thứ ba giao dịch với các bên liên quan khi thực hiện công việc được ủy quyền lại.
Việc ủy quyền lại phải phù hợp với lợi ích và mục tiêu của họp đồng ủy quyền ban đầu; hướng tới mục đích mà người ủy quyền mong muốn đạt được. Nếu bên được ủy quyền ủy quyền lại cho người thứ ba; thì phải thông báo cho bên ủy quyền biết. Nếu các bên không có thỏa thuận khác; thì người được ủy quyền lại chịu trách nhiệm trước bên ủy quyền. Phạm vi ủy quyền lại không được vượt quá phạm vi ủy quyền ban đầu.
Mặt khác, các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng ủy quyền cũng được pháp luật ghi nhận.
6. Chấm dứt hợp đồng ủy quyền
Các trường hợp làm chấm dứt hợp đồng ủy quyền được quy định chung tại phần uỷ quyền (khoản 3, điều 140); quy định cụ thể các trường hợp chấm dứt uỷ quyền theo ủy quyền. Theo quy định trên, hợp đồng ủy quyền chấm dứt trong các trường hợp sau: Theo thỏa thuận; Thời hạn ủy quyền đã hết; Công việc được ủy quyền đã hoàn thành; Người được uỷ quyền hoặc người uỷ quyền đơn phương chấm dứt thực hiện việc ủy quyền; Người được uỷ quyền, người uỷ quyền là cá nhân chết, là pháp nhân chấm dứt tồn tại; Người uỷ quyền không còn đủ điều kiện theo hướng dẫn tại khoản 3 điều 134 của BLDS; Căn cứ khác làm cho việc uỷ quyền không thể thực hiện được.
Hợp đồng ủy quyền trong bộ luật dân sự là một chế định cần thiết. Theo đó cần có những nghiên cứu sâu hơn về chế định này để việc thực hiện đạt hiệu quả trên thực tiễn.
Trên đây là toàn bộ nội dung về Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng ủy quyền do Luật LVN Group gửi tới. Hy vọng những thông tin trên sẽ giúp ích cho quý bạn đọc. Trong quá trình nghiên cứu, nếu quý bạn đọc còn có câu hỏi, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website hoặc Hotline để được hỗ trợ trả lời.