Chỉ dẫn địa lý và nhãn hiệu tập thể đều là đối tượng được bảo hộ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên trong thực tế, hai khái niệm này lại thường xuyên bị nhầm lẫn với nhau. Trong bài viết dưới đây, Công ty Luật LVN Group sẽ cung cấp thông tin về So sánh nhãn hiệu tập thể và chỉ dẫn địa lý. Mời các bạn tham khảo.
1. Nhãn hiệu tập thể là gì?
Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó.
Vì vậy, nhãn hiệu tập thể có thể được hiểu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành viên trong tổ chức (là chủ sở hữu của nhãn hiệu tập thể) với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân khác không phải là thành viên của tổ chức đó.
2. Chỉ dẫn địa lý là gì?
Theo khoản 22 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và tiếp tục được sửa đổi năm 2023 quy định rõ:
Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể.
Theo điều 22 hiệp định TRIPS “chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về hàng hóa bắt nguồn từ lãnh thổ của một thành viên hoặc từ một khu vực hay địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định”
Vì vậy, chỉ dẫn địa lý là những dấu hiệu được xác định là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp được Luật Sở hữu trí tuệ bảo hộ. Những dấu hiệu dùng để xác định sản phẩm có nguồn gốc từ một khu vực, địa phương, vùng hay lãnh thổ cụ thể, mà danh tiếng chất lượng của sản phẩm đó được quyết định bởi điều kiện địa lý của vùng đất đó. Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý thông thường là đặc sản của địa phương, có chất lượng và đặc tính riêng quyết định bởi điều kiện địa lý của địa phương đó.
Khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý là ranh giới được xác định một cách chính xác bằng từ ngữ và bản đồ.
3. So sánh nhãn hiệu tập thể và chỉ dẫn địa lý
3.1. Điểm giống nhau
– Nhãn hiệu tập thể và chỉ dẫn địa lý đều có thể gửi tới cho người tiêu dùng thông tin về nguồn gốc địa lý của hàng hóa
– Nhãn hiệu tập thể và chỉ dẫn địa lý đều có thể sử dụng bởi cá nhân; tổ chức kinh doanh hàng hóa dịch vụ.
– Các cá nhân; tổ chức kinh doanh hàng hóa dịch vụ có sử dụng nhãn hiệu tập thể hoặc chỉ dẫn địa lý đều phải tuân theo những quy định chung về nguồn gốc xuất xứ; chất lượng sản phẩm nhằm đảm bảo được sản phẩm sản xuất có chất lượng ổn định, giữ được danh tiếng cho nhãn hiệu tập thể và chỉ dẫn địa lý.
– Đều phải đăng ký xác lập quyền tại có quan nhà nước có thẩm quyền. Các dấu hiệu có thể là từ ngữ hoặc hình ảnh biểu tượng.
3.2. Điểm khác nhau
Thứ nhất, về chủ sở hữu
Nhãn hiệu thập thể thuộc sở hữu của một tổ chức tập thể được thành lập có tư cách pháp nhân, còn chỉ dẫn địa lý thuộc quyến sở hữu của nhà nước.
Thứ hai, về dấu hiệu phân biệt
Nhãn hiệu tập thể có thể chứa bất kỳ dấu hiệu nào được pháp luật cho phép để phân biệt hàng hóa, dịch vụ do thành viên của tổ chức tập thể sản xuất với hàng hóa, dịch vụ của những chủ thể khác không phải là thành viên của tổ chức. Nhưng, chỉ dẫn địa lý bắt buộc phải chứa tên địa danh nơi sản phẩm mang chỉ dẫn được sản xuất.
Thứ ba, về mục đích sử dụng
Chỉ dẫn địa lý chỉ được dùng để gắn lên các hàng hóa là đặc sản của một địa phương nhất định, trong khi nhãn hiệu tập thể có thể sử dụng để gắn lên các loại hàng hóa, dịch vụ khác như thẩm định giá tài chính, giám sát công trình, cho thuê kho bãi, vận chuyển lưu kho…
Thứ tư, về nguồn gốc
Đối với những nhãn hiệu tập thể không chứa dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý, các cá nhân, tổ chức sử dụng nhãn hiệu đó có thể tiến hành sản xuất kinh doanh ở các địa phương khác nhau nhưng vẫn phải tuân theo quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể. Ngược lại, người được sử dụng chỉ dẫn địa lý chỉ là những cá nhân, tổ chức tiến hành hoạt động sản xuất hàng hóa tại địa phương tương ứng với chỉ dẫn địa lý.
Thứ năm, về quyền của chủ sở hữu
Chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể có quyền chuyển nhượng quyền SHCN đối với nhãn hiệu tập thể cho các chủ thể khác. Trong khi đó, quyền SHCN đối với chỉ dẫn địa lý không được chuyển nhượng cho các chủ thể khác.
Thứ sáu, về thời hạn bảo hộ
Theo quy định của pháp luật, quyền SHCN đối với nhãn hiệu tập thể được bảo hộ lần đầu trong vòng 10 năm và có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp mỗi lần 10 năm. Trong khi đó, quyền SHCN đối với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ không xác định thời hạn ngay từ đầu..
4. Có thể bảo hộ chỉ dẫn địa lý như nhãn hiệu được không?
Từ ngày 05/10/2015, Việt Nam đã chính thức gia nhập Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement, viết tắt là TPP). Đây là Hiệp định có ý nghĩa cần thiết đặc biệt sau sự kiện Việt Nam tham gia Hiệp định WTO, có thể mở ra cơ hội phát triển mới cho kinh tế đất nước. Tuy nhiên, các nội dung đàm phán bảo hộ sở hữu trí tuệ đang hết sức gay gắt, có khả năng tạo sức ép lớn đối với Việt Nam do các đề xuất gia tăng hàm lượng bảo hộ (còn gọi là TRIPS+) từ phía Hoa Kỳ.
Căn cứ là, để đạt được TPP, các nước đối tác, trong đó có Việt Nam cần thức hiện thêm nhiều cam kết như: Mở rộng đối tượng bảo hộ sáng chế bao gồm cả phương pháp chữa bệnh, các cách thức sử dụng mới cũng như các tính năng mới của chất đã biết; Bảo hộ độc quyền dữ liệu, cho phép các chủ sở hữu sáng chế được giữ bí mật các dữ liệu thử nghiệm đã được sử dụng để chứng minh tính an toàn và hiệu quả của một loại thuốc mà không phải chia sẻ cho các nhà sản xuất thuốc generic…
Trong khi gia tăng sức ép ở các đối tượng sở hữu trí tuệ khác thì đối với chỉ dẫn địa lý, Hoa Kỳ đề xuất trong TPP là “Bảo hộ chỉ dẫn địa lý như nhãn hiệu”, có nghĩa là thực hiện bảo hộ theo hướng đơn giản hóa. Về đề xuất “Bảo hộ chỉ dẫn địa lý như nhãn hiệu”, Việt Nam cần cân nhắc hết sức kỹ lưỡng. Là nước đang phát triển, đạt được TPP với những điều kiện thuận lợi về thuế quan và tiếp cận thị thị trường các nước các nước phát triển như Mỹ là hết sức cần thiết.
Tuy nhiên, nếu chấp nhận bảo hộ chỉ dẫn địa lý tương tự hoặc dưới cách thức nhãn hiệu sẽ là một nhượng bộ đối với lợi ích quốc gia. Việt Nam là nước nông nghiệp, có nhiều sản phẩm mang tính đặc thù theo vùng, miền có thể được bảo hộ chỉ dẫn địa lý, mang lại ưu thế cạnh tranh. Với việc đơn giản hóa thủ tục bảo hộ chỉ dẫn địa lý sẽ tiềm ẩn nguy cơ các chỉ dẫn địa lý chưa đăng ký có thể dễ dàng bị các tổ chức/cá nhân chiếm hữu theo nguyên tắc “nộp đơn đầu tiên”. Chỉ dẫn địa lý với các điều kiện bảo hộ đặc thù đã, đang và cần được coi là tài sản chung, thuộc sở hữu cộng đồng dân cư khu vực tương ứng mà nhà nước làm uỷ quyền.
Hiện tại Việt Nam đã có 74 chỉ dẫn địa lý được bảo hộ, trong đó có 6 chỉ dẫn địa lý nước ngoài và 68 chỉ dẫn địa lý nội địa. Việt Nam có duy nhất 1 chỉ dẫn địa lý là “Nước mắm Phú Quốc” được bảo hộ tại EU năm 2013. Về vấn đề này, pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý là tương đối trọn vẹn, tuy nhiên Việt Nam lại không có quy định về cơ chế kiểm tra chất lượng các sản phẩm đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Do vậy, các chỉ dẫn địa lý nội địa thường không được xác định chất lượng ổn định, kém sức cạnh tranh. Biện pháp được coi là hữu hiệu để phát triển và nâng cao chất lượng chỉ dẫn địa lý Việt Nam là xác lập một hệ thống kiểm định chất lượng quốc gia khi xem xét và công nhận bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Kinh nghiệm của EU về hệ thống này là rất đáng nghiên cứu và học tập. Chỉ có như vậy, các chỉ dẫn địa lý nội địa của Việt Nam mới có thể vượt qua “rào cản kỹ thuật” vào các nước phát triển như EU và “vươn tầm” quốc tế.
Trên đây là tất cả thông tin về so sánh nhãn hiệu tập thể và chỉ dẫn địa lý mà Công ty Luật LVN Group cung cấp tới các bạn đọc giả. Nếu các bạn đọc giả còn có bất kỳ thắc mắc hay góp ý nào liên quan đến bài viết hoặc những vấn đề pháp lý khác hãy liên hệ với Công ty Luật LVN Group để nhận được sự hỗ trợ từ đội ngũ luật sư và các tác giả. Chúng tôi luôn sẵn lòng giải đáp thắc mắc của các bạn đọc. Trân trọng!