Ví dụ về sự kiện bất khả kháng

Sự kiện bất khả kháng là gì? Pháp luật Việt Nam quy định gì về những sự kiện bất khả kháng? Để hiểu rõ hơn về những quy định trong pháp luật về những sự kiện bất khả kháng hãy cùng LVN Group theo dõi nội dung trình bày dưới đây để biết thêm thông tin chi tiết về vấn đề này.

Ví dụ về sự kiện bất khả kháng

1.Sự kiện bất khả kháng là gì?

Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép

Điều khoản về bất khả kháng là một trong những điều khoản phổ biến trong hợp đồng, đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các bên khi ký kết hợp đồng. Sự kiện bất khả kháng được Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:

Điều 156. Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự

Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu.

Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.

Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình;

Có thể hiểu sự kiện bất khả kháng là những sự kiện, tình huống bất thường ngoài tầm kiểm soát của các bên, như chiến tranh, đình công, nổi loạn, tội phạm, thiên tai (như lũ lụt, động đất, phun trào núi lửa),… xảy ra, và việc đó ngăn cản một hay các bên của hợp đồng trong việc hoàn thành bổn phận và nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Vì vậy, bên không thực hiện được nghĩa vụ hợp đồng do sự kiện bất khả kháng  thì sẽ được miễn trách nhiệm pháp lý như bồi thường tổn hại…

Quy định pháp luật là như vậy, nhưng trên thực tiễn để xem xét một sự kiện có phải sự kiện bất khả kháng không thì rất khó định nghĩa rõ. Chưa có một văn bản pháp luật chính thức nào quy định cụ thể về các trường hợp bất khả kháng, nhiều quan điểm của các nhà lập pháp và hành pháp cho rằng sự kiện bất khả kháng bao gồm nhưng không giới hạn các trường hợp thiên tai, động đất, hỏa hoạn, chiến tranh, đình công, bạo loạn, thay đổi chính sách pháp luật của nước sở tại, thay đổi chính quyền…

Theo đó, sự kiện bất khả kháng nằm ngoài ý chí chủ quan của các bên và các bên không thể dự đoán trước, cũng như không thể tránh và ngăn chặn được, dẫn đến không thể thực hiện hoặc không thể thực hiện đúng hoặc trọn vẹn nghĩa vụ theo thỏa thuận đã giao kết. Trong trường hợp gặp sự kiện bất khả kháng, bên vi phạm có thể được miễn trách nhiệm bồi thường, phạt vi phạm, hoặc được giảm trừ giá trị hợp đồng phải bồi thường theo thỏa thuận của các bên và theo pháp luật quốc gia quy định.

2. Các yếu tố cấu thành sự kiện bất khả kháng

Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 156 Bộ luật dân sự năm 2015, một sự kiện sẽ được coi là bất khả kháng nếu:

– Xảy ra một cách khách quan,

– Không thể lường trước được

– Không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.

Mặt khác, căn cứ quy định về hệ quả pháp lý trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng được quy định tại khoản 2 Điều 351 BLDS 2015, hệ quả về việc bên bị ảnh hưởng không thực hiện được đúng nghĩa vụ quy định trong hợp đồng cũng cần được xét đến trong việc xác định một sự kiện có được coi là bất khả kháng đối với từng trường hợp cụ thể được không.

Thứ nhất, s kin xy ra mt cách khách quan

Bộ luật dân sự năm 2015 không quy định tiêu chí để xác định một sự kiện được xem là xảy ra một cách khách quan. Tuy nhiên, có thể suy luận một cách hợp lý rằng, một sự kiện xảy ra một cách khách quan khi sự kiện đó xảy ra không theo ý chí của các bên. Hay nói cách khác, sự kiện đó không do các bên tạo ra hoặc phát sinh do lỗi chủ quan của các bên. Có thể thấy, để xác định yếu tố khách quan thì điều cần thiết là xác định bên vi phạm có lỗi chủ quan hay chủ ý để xảy ra sự kiện bất khả kháng được không. Nói một cách rộng hơn, nếu sự kiện bất khả kháng xảy ra do hành vi của một bên trong hợp đồng thì bên đó khó có thể viện dẫn hệ quả phát sinh từ chính hành động của mình để coi đó là sự kiện bất khả kháng.

Thứ hai, s kin xy ra không th lường trướđược

Tương tự việc xác định một sự kiện được xem là xảy ra một cách khách quan, Bộ luật dân sự năm 2015 không quy định tiêu chí để xác định một sự kiện được xem là xảy ra không thể lường trước được. Diễn giải một cách đơn giản, một sự kiện là xảy ra không thể lường trước được khi sự kiện đó xảy ra nằm ngoài dự đoán của các bên. Vấn đề đặt ra là thời gian hợp lý mà các bên phải lường trước được việc một sự kiện bất khả kháng có thể xảy ra khi Bộ luật dân sự năm 2015 không có quy định về vấn đề này. Có thể thấy các cam kết và nghĩa vụ trong hợp đồng được các bên đưa ra dựa trên hoàn cảnh, điều kiện và yếu tố khách quan tại thời gian giao kết hợp đồng. Do đó, có thể suy luận một cách hợp lý rằng, sự kiện bất khả kháng phải là sự kiện mà các bên không thể lường trước được tại thời gian giao kết hợp đồng. Tuy vậy, nếu một sự kiện không thể lường trước được tại thời gian giao kết hợp đồng, nhưng sau đó lại có thể lường trước được trong quá trình thực hiện hợp đồng thì liệu sự kiện đó có còn được coi là bất khả kháng được không? Chúng tôi cho rằng, nếu một sự kiện trở nên có thể lường trước được sau thời gian giao kết hợp đồng thì không nên coi đó là một sự kiện bất khả kháng vì mục đích miễn trách nhiệm dân sự cho một vi phạm có thể xảy ra trong tương lai.

Bên cạnh đó, một vấn đề được Bộ luật dân sự năm 2015 đặt ra những chưa thực sự rõ ràng là tiêu chuẩn để xem xét khả năng các bên có thể lường trước một sự kiện khách quan có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng. Tiêu chuẩn này có thể áp dụng tại thời gian giao kết hợp đồng hoặc trong quá trình thực hiện hợp đồng. Dù không hoàn toàn rõ ràng, có lẽ sẽ hợp lý hơn nếu áp dụng tiêu chuẩn này trên cơ sở xem xét liệu một người bình thường trong hoàn cảnh tương tự có thể lường trước được việc xảy ra một sự kiện như thế được không. Nếu xem xét trên góc độ một người bình thường có thể lường trước được một sự kiện sẽ xảy ra thì sự kiện đó không nên được coi là một sự kiện bất khả kháng.

Thứ ba, s kin xy ra không th khc phđược mc dù đã áp dng mi bin pháp cn thiết và kh năng cho phép

Bên cạnh các điều kiện yêu cầu sự kiện bất khả kháng phải là sự kiện xảy ra khách quan và không thể lường trước được, đồng thời, Bộ luật dân sự năm 2015 quy định sự kiện bất khả kháng phải là sự kiện không thể khắc phục được mặc dù bên có nghĩa vụ đã nỗ lực áp dụng mọi biện pháp cần thiết và trong khả năng cho phép để khắc phục tác động của sự kiện đến việc thực hiện hợp đồng. Điều kiện này cũng phù hợp với nguyên tắc thiện chí, trung thực và hướng đến việc đảm bảo thực hiện hợp đồng của các bên. Theo đó, bên có nghĩa vụ phải áp dụng mọi biện pháp trong khả năng cho phép để thực hiện các cam kết và nghĩa vụ ghi nhận tại hợp đồng và không thể trông chờ việc xảy ra một trở ngại khách quan để làm căn cứ miễn trách nhiệm thực hiện hợp đồng.

Tuy nhiên, Bộ luật dân sự năm 2015 không làm rõ về các tiêu chí để đánh giá nỗ lực của một bên là cần thiết và trong khả năng cho phép của bên đó hay liệu yếu tố kinh tế có cần tính đến trong việc áp dụng một biện pháp khắc phục được không? Có lẽ sẽ hợp lý nếu nhìn từ góc độ các biện pháp khắc phục mà một người bình thường trong hoàn cảnh tương tự có thể áp dụng. Dù vậy, trong mọi trường hợp, sẽ không hợp lý nếu cho phép một bên đơn thuần dựa vào lý do kinh tế để không áp dụng bất kỳ biện pháp khắc phục nào khi xảy ra sự kiện vi phạm.

Thứ tư, s kin dđến hu qu là bên b nh hưởng không thc hiđượđúng nghĩa v hđồng

Bộ luật dân sự năm 2015 không quy định cụ thể về mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện bất khả kháng và việc thực hiện hợp đồng. Có thể hiểu một cách ngầm định rằng sự kiện bất khả kháng là nguyên nhân trực tiếp làm bên bị ảnh hưởng không thể thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng. Nếu tiếp cận như vậy, việc không thực hiện được đúng nghĩa vụ hợp đồng căn cứ vào sự kiện bất khả kháng chỉ có thể được chấp nhận nếu sự kiện bất khả kháng đó trên thực tiễn là nguyên nhân trực tiếp ngăn cản bên có nghĩa vụ thực hiện đúng nghĩa vụ. Khó khăn về tài chính phát sinh từ sự đình trệ hay suy thoái hoạt động kinh doanh dẫn đến một bên không có khả năng thực hiện được nghĩa vụ hợp đồng là nguyên nhân gián tiếp và không nên được coi là lý do cho việc không thể thực hiện nghĩa vụ. Nếu tính đến cả sự kiện là nguyên nhân gián tiếp làm bên bị ảnh hưởng không thể thực hiện nghĩa vụ thì sự kiện bất khả kháng có thể giải thích rất rộng dẫn đến việc bên bị ảnh hưởng dễ dàng sử dụng để miễn trừ trách nhiệm.

3. Hệ quả pháp lý của sự kiện bất khả kháng

Như đã trình bày ở trên, ngoại trừ trách nhiệm bồi thường tổn hại, Bộ luật dân sự năm 2015 không quy định rõ những loại trách nhiệm nào mà bên vi phạm không phải chịu. Trong khi đó, Luật Thương mại năm 2005 quy định rộng hơn về vấn đề này và miễn trách nhiệm của bên vi phạm đối với hầu hết các biện pháp khắc phục, bao gồm bồi thường tổn hại, phạt vi phạm, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng và đơn phương chấm dứt hợp đồng (Xem thêm tại Điều 294, 296, 300 Luật Thương mại năm 2005)

Dựa trên các quy định của pháp luật về hợp đồng và thông lệ thị trường, trong trường hợp vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm có thể áp dụng nhiều biện pháp khắc phục liên quan đến trách nhiệm tài chính và không liên quan đến trách nhiệm tài chính.

Các biện pháp khắc phục liên quan đến trách nhiệm tài chính bao gồm:

(i) bồi thường tổn hại

(ii) phạt vi phạm

(iii) lãi chậm trả

(iv) tiền thanh toán trước

(v) yêu cầu mọi khoản thanh toán chưa đến hạn phải đến hạn và thanh toán

(vi) bù trừ nghĩa vụ

(vii) yêu cầu thanh toán đối với các khoản thanh toán khác

Biện pháp khắc phục không liên quan đến trách nhiệm tài chính bao gồm:

(i) buộc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ

(ii) tạm ngừng thực hiện hợp đồng

(iii) hủy bỏ hợp đồng

(iv) đơn phương chấm dứt hợp đồng.

4. Dịch bệnh có phải là sự kiện bất khả kháng không?

Khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015 quy định: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”.

Theo đó, dịch bệnh nói chung và dịch bệnh Covid-19 nói riêng được coi là sự kiện bất khả kháng nếu đáp ứng được 3 yếu tố: Xảy ra một cách khách quan; Không thể lường trước được; Không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.

Trước tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến hết sức phức tạp, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành, chỉ đạo quyết liệt các biện pháp đồng bộ nhằm phòng ngừa, ngăn chặn dịch với phương châm “chống dịch như chống giặc”. Bên cạnh những kết quả rất đáng ghi nhận về công tác phòng, chống Covid-19, phải nhìn nhận rằng, dịch bệnh đã làm ảnh hưởng rõ nét đến đời sống kinh tế-xã hội, nhất là lĩnh vực giao thông vận tải, dịch vụ, du lịch, sản xuất, lưu thông hàng hóa, xuất nhập khẩu…

Bên cạnh đó, ngày 29/01/2020, tại Quyết định 219/QĐ-BYT, Bộ Y tế đã bổ sung bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rus Corona gây ra (có tên gọi là Covid-19) vào danh mục các bệnh truyền nhiễm nhóm A. Theo đó, các bệnh truyền nhiễm nhóm A theo Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 gồm những bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm, có khả năng lây truyền rất nhanh, phát tán rộng và tỷ lệ tử vong cao hoặc chưa rõ tác nhân gây bệnh. Theo tình hình hiện nay, dịch bệnh Covid-19 có mức độ lây lan nhanh, thuộc trường hợp khẩn cấp toàn cầu.

Trong tình hình dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến phức tạp hiện tại thì việc đơn vị chức năng đưa ra Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 31/3/2020 về thực hiện cấp bách các biện pháp phòng, chống dịch yêu cầu người dân, các đơn vị tổ chức tránh tiếp xúc, tụ tập và ra ngoài trong vòng 15 ngày trừ trừ các trường hợp thật sự cần thiết.

Vì vậy, dịch bệnh được coi là đáp ứng quy định về yếu tố khách quan và không thể lường trước được bởi đã có Chỉ thị của đơn vị quản lý nhà nước buộc tất cả mọi người phải tuận theo. Từ đó khả năng dẫn đến yếu tố thứ ba là “ Không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép” là hoàn toàn có thể xảy ra khi có thể chứng minh được là không thể khắc phục được tình hình mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và trong khả năng của mình.

Xét về mặt pháp lý, dịch bệnh là sự kiện khách quan, không thể lường trước. Nếu những hậu quả xảy ra dù trước đó đã dùng mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn không thể khắc phục được thì hoàn toàn có thể coi dịch bệnh Covid-19 là sự kiện bất khả kháng.

Bài viết trên là những thông tin chi tiết và cụ thể về sự kiện bất khả kháng. Nếu có những câu hỏi và câu hỏi cần trả lời xoay quanh các vấn đề pháp lý, hãy liên hệ Công ty Luật LVN Group để được tư vấn và hỗ trợ về những vấn đề này. Chúng tôi luôn đồng hành pháp lý cùng bạn.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com