Sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử đã kéo theo tình trạng vi phạm sở hữu trí tuệ (SHTT) ngày một gia tăng, trở thành một thách thức cho các chủ thể quyền SHTT và đơn vị chức năng. Để bảo đảm thương mại điện tử phát triển lành mạnh, cần bổ sung các quy định để xử lý vi phạm và sự phối hợp hiệu quả giữa các đơn vị thực thi quyền SHTT. Sau đây, LVN Group muốn gửi tới quý bạn đọc nội dung trình bày “Xử lý xâm phạm nhãn hiệu trong thương mại điện tử” và một vài vấn đề pháp lý có liên quan:
1. Cách xử lý hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu ?
Theo thông tin mà bạn gửi tới thì nhãn hiệu của Doanh nghiệp A đã dược cấp văn bằng bảo hộ. Do đó, nhãn hiệu này được bảo hộ theo hướng dẫn của Luật sở hữu trí tuệ năm. Doanh nghiệp B sử dụng nhãn hiệu Lohipopp có dấu hiệu gây nhầm lẫn, tương tự với nhãn hiệu Lolipop của doanh nghiêp A. Để xác định nhãn hiệu Lohipopp có được xem là nhãn hiệu gây nhầm lẫn, tương tự với nhãn hiệu Lolipop, chúng ta cần phải so sánh về mặt cấu trúc, nội dung, cách phát âm của hai nhãn hiệu này.
+ Cấu trúc: Nhãn hiệu Lohipopp trùng với nhãn hiệu Lolipop 6/8 chứ cái, hai nhãn hiệu đều có 3 âm tiết.
+ Nội dung: Lolipopp và Lohipop cũng có sự tương tự về nội dung.
+ Ý nghĩa ,cách thức thể hiện: Hình ảnh mà doanh nghiệp A sử dụng là quả bóng bay màu xanh, và doanh nghiệp B cũng sử dụng hình ảnh quả bóng bay y như thế nhưng màu đỏ. Vì vậy, về cách thức thể hiện hai nhãn hiệu này có sự tương tự.
Hơn nữa, hai doanh nghiêp này sử dụng hai nhãn hiệu cùng kinh doanh keo cao su.
Vì vậy, nhãn hiệu mà doanh nghiệp B sử dụng có dấu hiệu tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu mà doanh nghiệp A đang sử dụng. Hơn nữa, hai doanh nghiêp này sử dụng hai nhãn hiệu cùng kinh doanh keo cao su. Do đó, doanh nghiệp B đã có hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu theo hướng dẫn tại điểm c Khoản 1 Điều 129 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005:
“Điều 129. Hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý
c) Sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ trùng, tương tự hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ;”
2. Xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu bị xử phạt thế nào ?
Điểm g khoản 2 Điều 74 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định:
“Điều 74. Khả năng phân biệt của nhãn hiệu
2. Nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu nhãn hiệu đó là dấu hiệu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
g) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự từ trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên trong trường hợp đơn được hưởng quyền ưu tiên;…”
Nhãn hiệu công ty cổ phần máy biến thế Việt Nam và công ty TNHH ABB trực thuộc tập đoàn ABB Thụy Sỹ đều là “ABB”, nhãn hiệu này đã được công ty TNHH ABB trực thuộc tập đoàn ABB Thụy Sỹ sử dụng và thừa nhận rộng rãi từ trước ngày công ty cổ phần máy biến thế Việt Nam nộp đơn do đó khi công ty cổ phần máy biến thế Việt Nam sử dụng nhãn hiệu ABB đã gây nhầm lẫn cho người khác.
Trong trường hợp này, công ty biến thế Việt Nam đã sử dụng dấu hiệu xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu của công ty TNHH ABB trực thuộc tập đoàn ABB Thụy Sỹ. Công ty vi phạm có thể bị xử lý vi phạm hành chính theo hướng dẫn tại Nghị định 99/2013/NĐ-CP, cụ thể Khoản 15 Điều 11 Nghị định 99/2013/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp quy định:
“…15. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng dấu hiệu xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại trên biển hiệu, giấy tờ giao dịch kinh doanh, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, bao bì hàng hóa…”
3. Phân biệt hành vi giả mạo hàng hóa và xâm phạm nhãn hiệu?
Luật Sở hữu trí tuệ xác định, hàng hoá giả mạo nhãn hiệu là hàng hoá có gắn dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu (hoặc chỉ dẫn địa lý) đang được bảo hộ sử dụng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu (hoặc tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý).
Vì vậy, để kết luận một sản phẩm, hàng hoá nào đó là hàng hoá giả mạo nhãn hiệu (hoặc chỉ dẫn địa lý) thì phải đồng thời đáp ứng hai điều kiện: 1 – Nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu (hoặc chỉ dẫn địa lý) đang được bảo hộ và 2 – Mặt hàng gắn nhãn hiệu, dấu hiệu đó trùng với mặt hàng mà chủ sở hữu nhãn hiệu (hoặc chỉ dẫn địa lý) gắn nhãn hiệu (hoặc chỉ dẫn địa lý) đang được bảo hộ. Nói cách khác, để có thể kết luận hàng hoá giả mạo nhãn hiệu (hoặc chỉ dẫn địa lý) cần phải có mặt hàng thật cùng loại để so sánh.
Luật SHTT, Nghị định số 105/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật và Nghị định số 106 xử phạt vi phạm hành chính về SHCN đã có hiệu lực thi hành. Theo đó, hành vi xâm phạm quyền SHCN chỉ bị xử phạt hành chính khi tổ chức, cá nhân có hành vi đó không chấm dứt trong thời hạn hợp lý, mặc dù chủ sở hữu quyền đã cảnh báo, yêu cầu (khoản 2 Điều 211 Luật SHTT). Trong trường hợp này, uỷ quyền SHTT của Công ty Yamaha không có hành động cảnh báo, đưa ra thời hạn hợp lý để các cơ sở đó chấm dứt hành vi buôn bán. Vì vậy chưa đáp ứng trọn vẹn điều kiện theo hướng dẫn để có thể xử lý các tổ chức, cá nhân có hành vi vận chuyển, buôn bán số micro này.
Trên đây là toàn bộ nội dung của chúng tôi về vấn đề Xử lý xâm phạm nhãn hiệu trong thương mại điện tử cũng như các vấn đề pháp lý có liên quan. Trong quá trình nghiên cứu nếu như quý bạn đọc còn câu hỏi và có nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn của LVN Group vui lòng liên hệ với chúng tôi bằng cách để lại bình luận hoặc liên hệ qua các thông tin dưới đây để được tư vấn và trả lời một cách cụ thể nhất.