Cơ quan tiến hành tố tụng là đơn vị nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước trong việc giải quyết vụ án và thi hành án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội. Các quyết định của các cơ quạn này có giá trị bắt buộc các chủ thể khác phải chấp hành.Trong khi đó,về phía luật sự, luật sư phải giữ tính độc lập, không bị chi phối hoặc lệ thuộc vào ý kiến khác làm ảnh hưởng tới xây dựng quan điểm, phương án bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng vì việc Luật sư gửi tới dịch vụ pháp lý cho khách hàng xuất phát từ sự tín nhiệm, ủy thác tự nguyện của khách hàng.. Bài viết hôm nay của chúng tôi sẽ giới thiệu các bạn về Tính độc lập của luật sư với đơn vị tiến hành tố tụng. Mời các bạn đọc nội dung trình bày sau đây của chúng tôi để biết thêm thông tin !.
1.Thành phần các đơn vị tiến hành tố tụng
Trong tố tụng hình sự, đơn vị tiến hành tố tụng gồm có Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, các đơn vị này có quyền, đồng thời có nghĩa vụ áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và trọn vẹn, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự thuộc về các đơn vị tiến hành tố tụng. Mặt khác, trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự, Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án còn có nhiệm vụ tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các đơn vị, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngửa tội phạm.
Trong tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân là đơn vị tiến hành tố tụng. Khi tiến hành tố tụng đối với vụ án dân sự, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ cụ thể được Bộ luật tố tụng dân sự quy định.
Thành phần các đơn vị tiến hành tố tụng gồm có: toà án, viện kiểm sát và đơn vị thi hành án dân sự. Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không quy định đơn vị thi hành án dân sự là đơn vị tiến hành tô tụng dân sự. Tuy nhiên, theo chúng tôi, nếu Điều 1 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định thi hành án là hoạt động tố tụng dân sự thì đơn vị thi hành án dân sự cần được coi là đơn vị tiến hành tể tụng dân sự. Tuy vậy, trong giới hạn chương trình của môn học, vấn đề này và các vấn đề khác liên quan đến thi hành án dân sự không được trình bày ở cuốn Giáo trình này mà sẽ được trình bày ở cuốn Giáo trình luật thi hành án dẫn sự Việt Nam. Các Cơ quan này tham gia vào tố tụng dân sự với mục đích, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau.Trên đây là tư vấn của chúng tôi.
Toà án là đơn vị xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong tố tụng dân sự, toà án là đơn vị tiến hành tố tụng dân sự chủ yếu. Nhiệm vụ, quyền hạn chủ yếu của toà án trong tố tụng dân sự là giải quyết vụ việc dân sự. Khi tiến hành giải quyết các vụ việc dân sự, toà án phải thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Mặt khác, toà án còn phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn hại do hành vi trái pháp luật của những người tiến hành tố tụng gây ra cho các cá nhân, đơn vị, tổ chức.
2.Vai trò của luật sư
2.1.Vai trò của Luật sư ở Việt Nam hiện nay
Luật sư và nghề luật sư đang ngày càng khẳng định vị trí và vai trò cần thiết trong đời sống xã hội hiện nay. Luật sư là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, đơn vị tổ chức có hiệu quả nhất tại Tòa án; góp phần giảm thiểu các vụ án oan sai, bảo vệ tốt nhất quyền lợi của khách hàng trên cơ sở các quy định của pháp luật, qua đó vị thế của luật sư trong xã hội. Luật sư với tư cách là người hiểu biết pháp luật sẽ giúp cho các đơn vị nhà nước, đảm bảo cho các hoạt động của các đơn vị này diễn ra đúng pháp luật. Pháp luật phải được mọi người nhận thức và thực hiện thống nhất trên toàn lãnh thổ và tất cả các ngành, pháp luật thống nhất đòi hỏi mọi người dân trên mọi vùng miền phải có đủ thông tin về pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật. Luật sư có sự ảnh hưởng tích cực tới đời sống xã hội, có vai trò cần thiết nhất là trợ giúp pháp lý, thể hiện thông qua các hoạt động sau:
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đơn vị, tổ chức, cá nhân trong tố tụng và ngoài tố tụng.
-Trong lĩnh vực tham gia tố tụng:
Luật sư tham gia hoạt động tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp khác của đương sự trong các vụ việc dân sự, hành chính; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, lợi ích liên quan trong vụ án hình sự; là người bào chữa, của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,…
-Trong lĩnh vực uỷ quyền ngoài tố tụng:
Luật sư uỷ quyền cho khách hàng để giải quyết công việc có liên quan đến việc mà luật sư đã nhận theo phạm vi, nội dung được ghi trong hợp đồng dịch vụ pháp lý hoặc theo sự phân công của công ty luật hoặc văn phòng luật sư nơi luật sư hành nghề với tư cách là cá nhân công tác theo hợp đồng lao động. Luật sư sẽ cùng khách hàng hoặc thay mặt khách hàng công tác với các cá nhân, tổ chức, đơn vị nhà nước có thẩm quyền để giải quyết các vụ việc liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Thông thường, luật sư tham gia uỷ quyền ngoài tố tụng thể hiện trong các lĩnh vực như Hành chính, Lao động, khiếu nại…
Luật sư có vai trò rất lớn trong việc giúp cá nhân, đơn vị, tổ chức hiểu biết pháp luật và thực hiện đúng pháp luật
-Trong lĩnh vực tư vấn pháp luật, luật sư tham gia tư vấn cho khách hàng để đảm bảo quyền lợi hợp pháp tốt nhất cho khách hàng của mình: tư vấn hợp đồng, tư vấn cho các doanh nghiệp hoặc thực hiện các dịch vụ pháp lý khác,…thông qua hoạt động hướng dẫn, trả lời; đưa ra các ý kiến và hướng giải quyết; gửi tới thông tin liên quan đến vụ việc; Giúp soạn thảo đơn từ
Luật sư trong hoạt động tuyên truyền pháp luật và hoạt động tác xây dựng pháp luật
-Hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật
Luật sư với tư cách là độc lập, đứng ở giữa với nhà nước với nhân dân. Họ là những người gần gũi, có cơ hội được gần người dân, hiểu người dân, do đó khi họ hiểu pháp luật thế nào thì sẽ tuyên truyền cho người dân một cách dễ hiểu nhất. Từ đó tạo nên nhiều ý kiến trái chiều về pháp luật. Luật sư không đứng cùng phía với Nhà nước để Nhà nước nhận ra được sự hạn chế của pháp luật để có hướng điều chỉnh cho đúng, phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội của đất nước.
Tham gia đóng góp xây dựng chính sách, pháp luật về cải cách tư pháp, cải cách hành chính, và hội nhập kinh tế quốc tế
Tổ chức và tham gia các cuộc hội thảo, tọa đàm, góp ý bằng văn bản, tham gia ý kiến tại các cuộc họp của Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố để góp ý đối với các dự án luật và văn bản dưới luật trong quá trình soạn thảo. Phản ánh, kiến nghị về những khó khăn, vướng mắc thực tiễn hoạt động luật sư trong khuôn khổ hoạt động giám sát chấp hành pháp luật của các Đoàn công tác của Quốc hội, Hội đồng Nhân dân Thành phố,…
2.2.Luật sư gửi tới các dịch vụ pháp lý khác
3. Tính độc lập của luật sư với đơn vị tiến hành tố tụng
Một bản án được tuyên dù là hình sự hay dân sự nó ảnh hưởng trực tiếp đến các người tham gia tố tụng; gián tiếp đến thân nhân của họ nhưng lại có tác động đến tâm lý của nhiều người trong xã hội. Luật sư chỉ có thể góp phần vào việc hoàn thiện để Tòa án đưa ra một bản án công bằng, hợp lý nhằm phù hợp với các quy định của luật pháp nếu Luật sư giữ được tinh thần độc lập trước các đơn vị và người tiến hành tố tụng.
Góp phần tạo nên một bản án công bằng và đúng luật là chung sức tạo nên một xã hội văn minh là gián tiếp bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy những đóng góp về mặt trí tuệ nhất là tại các vụ án có tính phức tạp hay nhạy cảm nếu được Tòa thừa nhận thì sự đóng góp này đã góp phần làm thêm vẻ đẹp của nội dung bản án. Mỗi khi Luật sư làm tròn chức năng của mình với trọn vẹn tinh thần độc lập thì chính những đóng góp của Luật sư đích thực đã thể hiện tình nhân ái của con người với con người.
Nhưng để có thể đưa ra một bản án công bằng và đúng luật thì tất cả các quan hệ nhất là quan hệ giữa Luật sư với những đơn vị, những người tiến hành tố tụng phải được thiết lập trên mối quan hệ công. Mối quan hệ công nếu thuần túy thì phải đặt trên cơ bản của mối “quan hệ đô thị” chứ không phải là “quan hệ làng xóm” hay còn gọi là “quan hệ nghĩa tình” tức là mọi sự việc đều được giải quyết trên cơ sở quy định của luật pháp hơn là được giải quyết trên cơ sở nghĩa tình.
Tôi nói đến mối “quan hệ đô thị” vì chỉ có mối quan hệ này mới đem lại sự tỉnh táo cho người trực tiếp hay gián tiếp giải quyết vụ việc còn không thì hình như mọi giải pháp và quyết định được đưa ra đều có tính ban phát như một ly cà fê không đường cùng một cái bánh ngọt và mỗi người nếm một chút vị đắng lẫn vị ngọt trong đó có phần nào trách nhiệm của Luật sư vì đã không tôn trọng tính độc lập của nghề mà mình đã chọn và đã đem tâm huyết ra mà sống với nghề.
Tuy nhiên Luật sư độc lập trong hoạt động hành nghề không có nghĩa là tự tách hoạt động của mình ra khuôn khổ của các hoạt động tố tụng khác.Tính độc lập nói trên không thể đồng nghĩa với sự cô lập, tự tách mình ra, coi mình là tuyệt đối, mà nó cần hòa quyện trong trật tự của một nền pháp chế thống nhất.
Có như vậy Luật sư sẽ đảm bảo được tính độc lập trong hành nghề mà vẫn giữ được sự tôn trọng từ các đơn vị tố tụng và người tiến hànhtố tụng. Vì vậy bảo đảm được sự độc lập của mình, người luật sư phải tuân thủ các quy tắc trong quan hệ với đơn vị tố tụng; ví dụ không được gửi tới thông tin, tài liệu, chứng cứ mà biết rõ không xác thực và đi xa hơn nữa không được móc nối, lôi kéo cán bộ công tác trái quy định của pháp luật…
Luật sư có thể trao đổi ý kiến về nghiệp vụ với người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết án nếu xét thấy cần thiết và có lợi cho khách hàng. Tuy nhiên, luật sư phải giữ tính độc lập, không bị chi phối hoặc lệ thuộc vào ý kiến khác làm ảnh hưởng tới xây dựng quan điểm, phương án bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng vì việc Luật sư gửi tới dịch vụ pháp lý cho khách hàng xuất phát từ sự tín nhiệm, ủy thác tự nguyện của khách hàng..
Do đó, có thể khẳng định bản chất mối quan hệ giữa luật sư với các đơn vị và người tiến hành tố tụng thực chất là mối quan hệ có tính phản biện, tác động hổ tương lẫn nhau vì nói cho cùng sự độc lập của Luật sư khi hành nghề sẽ góp phần tạo nên nguồn gốc của phép ứng xử tôn trọng lẫn nhau giữa Luật sư, khách hàng và các đơn vị, người tiến hành tố tụng.
Để giữ được tinh thần độc lập khi hành nghề không phải là một điều dễ dàng vì trên thực tiễn Luật sư có thể bắt gặp những rào cản hữu hình lẫn vô hình khi tiếp cận với yêu cầu của khách hàng cũng như đối với một số người tiến hành tố tụng dưới nhiều cách thức khác nhau. Trong vài trường hợp Luật sư cần biết quên và hy sinh đi cái lợi ích của mình nhằm bảo đảm được một nền pháp chế dân chủ, công bằng phù hợp với quy định hiện hành.
Hơn ai hết, chính Luật sư là người phải chấp nhận mọi rủi ro khi xem trọng tinh thần độc lập trong quá trình hành nghề. Giữ được tinh thần độc lập chính là giữ lại cái tinh túy của nghề và người Luật sư để trước hết giữ được lòng tự trọng của chính mình và sau nữa để được xã hội tôn vinh và trân trọng. Tôi nghĩ con đường mà bất cứ Luật sư nào đi cũng là con đường sỏi đá, không bao giờ được trải hoa nếu Luật sư đứng và đi bằng đôi chân độc lập.