Các trường hợp miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Các trường hợp miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền

Các trường hợp miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền

Đại diện toàn quyền là người uỷ quyền duy nhất của Nhà nước ở nước ngoài có toàn quyền tiến hành các quan hệ với Chính phủ nước sở tại, điều hành và giám sát các hoạt động của các đơn vị khác của nhà nước mình ở nước sở tại… Vậy Các trường hợp miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền là gì? Hãy cùng LVN Group nghiên cứu thông qua nội dung trình bày dưới đây!

Các trường hợp miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền

1. Đại diện toàn quyền

Đại diện toàn quyền là người uỷ quyền duy nhất của Nhà nước ở nước ngoài có toàn quyền tiến hành các quan hệ với Chính phủ nước sở tại, điều hành và giám sát các hoạt động của các đơn vị khác của nhà nước mình ở nước sở tại. Đại diện toàn quyền được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao theo hướng dẫn của luật quốc tế. Xét về chức năng và các quyền ưu đãi, miễn trừ thì uỷ quyền toàn quyển tương ứng với đại sứ đặc mệnh toàn quyền.

2. Khái niệm về đại sứ đặc mệnh toàn quyền.

Đại sứ đặc mệnh toàn quyền là người đứng đầu đơn vị uỷ quyền ngoại giao ở nước ngoài với sự thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia hữu quan ở cấp cao nhất (cấp đại sứ).

Đại sứ đặc mệnh toàn quyền được bổ nhiệm bên cạnh nguyên thủ quốc gia. Thông thường người mang hàm đại sứ có chức vụ ngoại giao là đại sứ đặc mệnh toàn quyền, được ghi nhận trong tập cửa hàng pháp quốc tế và được khẳng định trong Công ước Viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao.

Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam do Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cử với uỷ nhiệm thư bên cạnh nguyên thủ quốc gia của nước tiếp nhận. Giúp việc cho đại sứ có các Tham tán, Bí thư, Tuỳ viên, công chuyên viên hành chính và một số tuỳ viên chuyên trách theo các ngành như báo chí, văn hoá, quân sự… Đại sứ đặc mệnh toàn quyền có chức năng, nhiệm vụ: thay mặt nước cử uỷ quyền tại nước tiếp nhận, đàm phán theo chỉ thị của Chính phủ, nghiên cứu tình hình nước sở tại và thông báo lại cho Chính phủ, bảo vệ quyền lợi nhà nước và công dân nước mình ở nước SỞ tại, thúc đẩy phát triển quan hệ lâu dài về mọi lĩnh vực giữa hai nước.

Khái niệm đại xứ cửa hàng được hiểu là đơn vị uỷ quyền ngoại giao.

3. Xây dựng quy trình đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền

Để xây dựng một quy trình cụ thể, hoàn chỉnh về việc Uỷ ban thường vụ quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền có ba hướng sau:

Theo hướng thứ nhất, cần luật hóa quy định Thủ tướng Chính phủ trình phê chuẩn Uỷ ban thường vụ quốc hội đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền. Căn cứ của giải pháp này là phép suy đoán tương tự đối với quy trình hiến định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ trình đề nghị Uỷ ban thường vụ quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền còn Chủ tịch nước thì căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ quốc hội để bổ nhiệm, miễn nhiệm, cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền. Mặc dù đại sứ đặc mệnh toàn quyền không phải là thành viên của Chính phủ nhưng Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo việc xây dựng chính sách và việc tổ chức thực thi chính sách nói chung, trong đó có chính sách đối ngoại nên việc giao thẩm quyền đề nghị này cho Thủ tướng Chính phủ là hợp lý. Mặt khác, theo thông lệ từ trước đến nay, cũng như theo Luật Cơ quan uỷ quyền, Thủ tướng Chính phủ vẫn là người trình Chủ tịch nước về đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm các đại sứ. Do đó, Thủ tướng Chính phủ nên tiếp tục là người trình đề nghị và ủy quyền cho Bộ trưởng Ngoại giao đến dự phiên họp của Uỷ ban thường vụ quốc hội trình bày và giải trình đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền.

Theo hướng thứ hai, tập thể Chính phủ với tư cách là một chế định trong Hiến pháp mới có quyền trình đề nghị. Điều này có cơ sở là do chỉ Chính phủ mới có thẩm quyền “thống nhất quản lý về đối ngoại” và “thực hiện quản lý về cán bộ, công chức, viên chức và công vụ trong các đơn vị nhà nước” (Hiến pháp 2013, Điều 96 Khoản 3 và 5), “thống nhất quản lý nhà nước về đơn vị uỷ quyền”. Hơn nữa, chức vụ đại sứ đặc mệnh toàn quyền không thuần túy là một chức danh hành pháp mà là sự phản ánh chế định Chủ tịch nước. đại sứ đặc mệnh toàn quyền là người thay mặt Việt Nam tại nước sở tại. Với tầm cần thiết như vậy, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền phải được đưa ra bàn bạc, thảo luận và quyết định bởi tập thể Chính phủ. Việc trình đề nghị ra phiên họp của Uỷ ban thường vụ quốc hội có thể do một uỷ quyền được ủy quyền của Chính phủ thực hiện. Đại diện của Chính phủ có thể trực tiếp là Thủ tướng Chính phủ, hoặc Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao. Quy định như thế sẽ linh hoạt hơn.

Theo hướng thứ ba, Chủ tịch nước sẽ là người trình đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền Uỷ ban thường vụ quốc hội phê chuẩn, sau đó căn cứ vào nghị quyết phê chuẩn của Uỷ ban thường vụ quốc hội mà Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền. Theo hướng này, Chủ tịch nước sẽ được tăng thẩm quyền một cách hợp lý và chủ động hơn trong việc thực hiện thẩm quyền của mình. Việc quy định như vậy cũng làm rõ hơn nữa nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các đơn vị khi Chủ tịch nước có thực quyền kiểm soát đối với các vị thực thi chính sách đối ngoại ở ngoài đất nước và uỷ quyền cho nhà nước Việt Nam ở nước ngoài. Hơn nữa, thẩm quyền đó cũng tạo ra sự thống nhất trong các hoạt động liên quan đến các vị đứng đầu các Phái đoàn thường trực do Chủ tịch nước cử, triệu hồi. Chủ tịch nước cũng không nhất thiết phải có mặt tại phiên họp của Uỷ ban thường vụ quốc hội để trình đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền mà có thể ủy quyền cho Phó Chủ tịch nước hoặc Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước trình bày và giải trình đề nghị.

Cả ba phương án trên đều có những điểm hợp lý. Việc lựa chọn giải pháp nào sẽ do Quốc hội quyết định khi sửa đổi các luật về tổ chức. Tuy nhiên, dù lựa chọn giải pháp nào cũng phải tính đến việc sau này sẽ có hoạt động tổ chức các phiên điều trần ở Ủy ban đối với các đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại các địa bàn trọng điểm, liên quan mật thiết tới việc thực thi chính sách đối ngoại với những nước lớn như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, Đức, Pháp, các nước ASEAN… Các phiên điều trần có thể do Uỷ ban thường vụ quốc hội trực tiếp tổ chức với sự tham dự của các thành viên hoặc giao cho Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội tổ chức để có thêm cơ sở và thông tin trước khi quyết định phê chuẩn cũng như thể hiện rõ vai trò và trách nhiệm của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội đối với việc hoạch định và thực thi chính sách đối ngoại của quốc gia. Cơ quan này có quyền bỏ phiếu tín nhiệm hoặc bất tín nhiệm với một vị đại sứ đặc mệnh toàn quyền nào đó, khởi đầu cho quy trình miễn nhiệm.

Trên đây là các thông tin vềCác trường hợp miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền Danh mục các loại mặt hàng tiêu dùng? mà LVN Group gửi tới tới quý bạn đọc Nếu còn bất kỳ câu hỏi nào cần hỗ trợ về vấn đề trên vui lòng liên hệ với Công ty Luật LVN Group của chúng tôi. Công ty Luật LVN Group luôn cam kết sẽ đưa ra nhưng hỗ trợ tư vấn về pháp lý nhanh chóng và có hiệu quả nhất. Xin chân thành cảm ơn quý bạn đọc.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com