Phương pháp điều chỉnh của luật an sinh xã hội – Luật LVN Group - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Phương pháp điều chỉnh của luật an sinh xã hội – Luật LVN Group

Phương pháp điều chỉnh của luật an sinh xã hội – Luật LVN Group

An sinh xã hội là một trong những lĩnh vực có đối tượng thụ hưởng rất lớn liên quan đến quyền được đảm bảo an sinh xã hội của công dân. Do vậy, an sinh xã hội góp phần đảm bảo thu nhập và đời sống cho các công dân trong xã hội khi họ không may gặp phải những “rủi ro xã hội” hoặc các “biến cố xã hội” dẫn đến ngừng hoặc giảm thu nhập. Phương thức hoạt động của an sinh xã hội là thông qua các biện pháp công cộng tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên trong xã hội hướng tới sự hưng thịnh và hạnh phúc cho mọi người và cho xã hội. Tuy nhiên nhiều người lại chưa thực sự quan tâm về vấn đề này. Hãy cùng LVN Group nghiên cứu các thông tin về phương pháp điều chỉnh của luật an sinh xã hội thông qua nội dung trình bày dưới đây để hiểu rõ thêm về vấn đề này !.

phương pháp điều chỉnh của luật an sinh xã hội

1. Khái niệm

Quan hệ pháp luật an sinh xã hội là những quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực Nhà nước tổ chức, thực hiện các cách thức bảo vệ, trợ giúp cho các thành viên xã hội nhằm bảo đảm an toàn trong đời sống xã hội, được các quy phạm pháp luật an sinh xã hội điều chỉnh

2.Đối tượng nghiên cứu của an sinh xã hội

An sinh xã hội là nguyện vọng, ước muốn của mọi con người, mọi dân tộc, mọi thời đại và là sự tất yếu của xã hội. Các nhà nước tiến bộ, đặc biệt là nhà nước dân chủ, với tư cách là uỷ quyền cho quyền lợi của nhân dân đã biết thể chế hoá nguyện vọng đó thành “pháp luật an sinh” và tạo cơ chế, chính sách, bộ máy Nhà nước quản lý và thực hiện an sinh xã hội, biến an sinh xã hội từ ước muốn của nhân dân thành “nền an sinh xã hội quốc gia” hay “hệ thống an sinh xã hội quốc gia”. Vì vậy, có thể thấy rõ rằng, phát triển hệ thống an sinh xã hội là một tất yếu của lịch sử xã hội loài người, mang tính khách quan, nhưng ở mỗi nước, mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, an sinh xã hội mang tính chất chủ quan, phản ánh trọn vẹn, rõ nét, tập trung ý chí của giai cấp cầm quyền.

Tuy nhiên, lịch sử hình thành và phát triển của an sinh xã hội của nhiều nước trên thế giới thuộc nhiều chế độ xã hội khác nhau đã chứng minh rằng, an sinh xã hội của nước nào đó có bền vững được không phụ thuộc nhiều vào tính khách quan của hệ thống pháp luật an sinh xã hội của nước đó. Nói cách khác, các cơ chế, chính sách, giải pháp an sinh xã hội tốt nếu chúng được xây dựng dựa trên những nền tảng của những quy luật khách quan của các khoa học tự nhiên, khoa học về sự tồn tại và phát triển của con người và khoa học xã hội; quy luật kinh tế – xã hội, chi phối hoạt động sống, hoạt động sản xuất và tiêu dùng, đầu tư và tích luỹ.

An sinh xã hội là nguyện vọng, ước muốn của mọi con người, mọi dân tộc, mọi thời đại và là sự tất yếu của xã hội. Các nhà nước tiến bộ, đặc biệt là nhà nước dân chủ, với tư cách là uỷ quyền cho quyền lợi của nhân dân đã biết thể chế hoá nguyện vọng đó thành “pháp luật an sinh” và tạo cơ chế, chính sách, bộ máy Nhà nước quản lý và thực hiện an sinh xã hội, biến an sinh xã hội từ ước muốn của nhân dân thành “nền an sinh xã hội quốc gia” hay “hệ thống an sinh xã hội quốc gia”. Vì vậy, có thể thấy rõ rằng, phát triển hệ thống an sinh xã hội là một tất yếu của lịch sử xã hội loài người, mang tính khách quan, nhưng ở mỗi nước, mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, an sinh xã hội mang tính chất chủ quan, phản ánh trọn vẹn, rõ nét, tập trung ý chí của giai cấp cầm quyền.

Tuy nhiên, lịch sử hình thành và phát triển của an sinh xã hội của nhiều nước trên thế giới thuộc nhiều chế độ xã hội khác nhau đã chứng minh rằng, an sinh xã hội của nước nào đó có bền vững được không phụ thuộc nhiều vào tính khách quan của hệ thống pháp luật an sinh xã hội của nước đó. Nói cách khác, các cơ chế, chính sách, giải pháp an sinh xã hội tốt nếu chúng được xây dựng dựa trên những nền tảng của những quy luật khách quan của các khoa học tự nhiên, khoa học về sự tồn tại và phát triển của con người và khoa học xã hội; quy luật kinh tế – xã hội, chi phối hoạt động sống, hoạt động sản xuất và tiêu dùng, đầu tư và tích luỹ.

3. Đặt điểm quan hệ pháp luật an sinh xã hội

-Trong quan hệ pháp luật an sinh xã hội, thông thường có một bên tham gia là Nhà nước

-Mọi thành viên trong xã hội đều có thể tham gia quan hệ pháp luật an sinh xã hội.

-Chủ thể hưởng an sinh xã hội có quyền tham gia quan hệ pháp luật an sinh xã hội ngay từ khi được sinh ra.
-Quan hệ pháp luật an sinh xã hội được thiết lập trên cơ sở nhu cầu quản lý rủi ro, tương trợ cộng đồng trong xã hội.
-Quyền và nghĩa vụ chủ yếu của các chủ thể là trợ giúp và được trợ giúp vật chất, do Nhà nước bảo đảm thực hiện.

4. Vai trò của an sinh xã hội

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực bên cạnh “cơ hội” thì “thách thức”, “rủi ro”  cận kề khi nói đến cơ hội, đến sự thuận lợi mang lại từ hội nhập quốc tế thường là cơ hội cho phát triển kinh tế, ngược lại sự thách thức, rủi ro lại là vấn đề xã hội như bất bình đẳng gia tăng, phân hoá giàu nghèo, phân tầng xã hội, nghèo đói, bần cùng hoá và ô nhiễm môi trường. Do vậy, kinh tế thị trường càng phát triển mạnh thì vai trò của nhà nước về an sinh xã hội càng lớn, có như vậy mới đảm bảo sự hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội trong từng bước đi, trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.

An sinh xã hội là một trong những công cụ quản lý nhà nước, sự quản lý này thể hiện thông qua hệ thống luật pháp, chính sách và các chương trình của một quốc gia. Mục đích của nó là giữ gìn sự ổn định về xã hội, chính trị của đất nước, mà cần thiết hàng đầu là ổn định xã hội, giảm sự bất bình đẳng xã hội, bất bình đẳng về giới, phân hoá giàu nghèo, phân tầng xã hội tạo nên sự đồng thuận xã hội giữa các giai tầng xã hội, giữa các nhóm xã hội trong quá trình phát triển. Lý luận và thực tiễn đều cho thấy, kinh tế thị trường càng phát triển, kinh tế tăng trưởng càng cao thì xu hướng phân hoá giàu nghèo, phân tầng xã hội và bất bình đẳng càng gia tăng. Để tạo ra sự phát triển bền vững, đòi hỏi Nhà nước càng phải phát triển mạnh mẽ hệ thống an sinh xã hội để “điều hoà” các “mâu thuẫn xã hội” đã phát sinh, đang phát sinh và sẽ phát sinh. Hệ thống an sinh xã hội sẽ giúp cho việc điều tiết tốt hơn và hạn chế các nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn xã hội, bất ổn của xã hội. Hệ thống an sinh xã hội sẽ áp dụng các giải pháp điều tiết phân phối lại thu nhập, điều tiết sự phân phối lại giữa các khu vực kinh tế, các vùng kinh tế, các nhóm dân cư làm giảm bớt sự bất bình đẳng trong quá trình cùng tồn tại và phát triển. Nhà nước thông qua hệ thống chính sách an sinh xã hội điều tiết phân phối của cải xã hội, cân đối, điều chỉnh nguồn lực để tăng cường cho các vùng nghèo, vùng chậm phát triển, tạo nên sự phát triến hài hoà giữa các vùng, giảm bớt sự chênh lệch giữa các vùng; mở rộng chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội làm giảm bất bình đắng giữa các nhóm dân cư.

An sinh xã hội còn có vai trò cần thiết trong việc phòng ngừa rủi ro, sự phòng ngừa rủi ro này có ý nghĩa cần thiết cho việc ổn định cuộc sống của mọi thành viên trong xã hội khi rủi ro xảy ra. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng chi phí cho phòng ngừa rủi ro sẽ thấp hon rất nhiều chi phí cho hạn chế và khắc phục rủi ro, nếu đem so sách hai loại chi phí này thì chi phí cho các chính sách, chương trình mang tính chất phòng ngừa sẽ đem lại hiệu quả kinh tế rất cao. Ví dụ vấn đề phòng ngừa HIV/AIDS, phòng ngừa tàn tật, dịch bệnh, phòng ngừa thảm hoạ thiên tai… Có những rủi ro biết trước nó sẽ diễn ra trong cuộc đời như già yếu, không còn khả năng lao động, phòng ngừa sự cố này Nhà nước phải tạo môi trường cho các thành viên xã hội tiết kiệm từ khi còn trẻ thông qua hệ thống bảo hiểm xã hội hoặc bảo hiểm tuổi già, đến khi về già họ có khả năng đối phó với rủi ro đó là có lương hưu hoặc tiền bảo hiểm tuổi già…Nếu họ không có thu nhập để bảo đảm cuộc sống thì trách nhiệm của nhà nước, cộng đồng, gia đình phải chăm lo cho họ.

An sinh xã hội trực tiếp giải quyết những vấn đề liên quan đến giảm thiểu rủi ro, hạn chế tính dễ bị tổn thương và khắc phục hậu quả của rủi ro thông qua các chính sách và chương trình cụ thể nhằm giúp cho các thành viên xã hội ổn định cuộc sống, tái hoà nhập cộng đồng thông qua “sức bật” của các lưới an sinh xã hội hoặc bảo đảm cho họ có mức sống ở mức tối thiểu không bị rơi vào bần cùng hoá.

Hệ thống an sinh xã hội tốt sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định; vì việc đầu tư trong nước hoặc nước ngoài, các nhà đầu tư không chỉ chú ý đến các yếu tố kinh tế mà còn chú ý đến các yếu tố của an sinh xã hội và sự ổn định về mặt xã hội. Một xã hội ổn định giúp các nhà đầu tư yên tâm đầu tư phát triển lâu dài, tạo cho kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định, ngược lại một xã hội không ổn định sẽ dẫn đến đầu việc tư ngắn hạn, làm ăn theo kiểu “chộp giật” làm cho kinh tế tăng trưởng không bền vững. Mặt khác, bản thân sự phát triển hệ thống an sinh xã hội hiện đại cũng là một lĩnh vực dịch vụ “có thu” tạo nguồn tài chính cho phát triển kinh tế của đất nước, đặc biệt là lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.​

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá về kinh tế, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia sẽ gia tăng và chi phối ảnh hưởng lẫn nhau trong quá trình phát triển. Việt Nam cũng sẽ không nằm ngoài xu thế tất yếu đó, trong bối cảnh đó thì Nhà nước sẽ có 2 chức năng cần thiết nhất:

Quản lý Nhà nước về kinh tế, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và bảo đảm cho nền kinh tế thị trường vận hành theo những quy luật vốn có của nó và giảm thiểu rủi ro cho mọi thành viên trong xã hội. Đối với nước ta, còn phải đảm bảo chi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và có lợi cho người nghèo, người thu nhập thấp;

Quản lý xã hội, bảo đảm sự ổn định xã hội và chính trị thông qua phát triển hệ thống chính sách xã hội mà trong đó hệ thống an sinh xã hội là cốt lõi. Bởi kinh tế càng tăng trưởng, phân hóa giàu nghèo càng có xu hướng gia tăng và nảy sinh nhiều vấn đề xã hội; một hệ thống an sinh xã hội tốt sẽ góp phần giảm thiểu việc phân hóa giàu nghèo, giảm thiểu mâu thuẫn xã hội, giữ vững ổn định về chính trị. Chính những điều này lại góp phần thúc đẩy việc đầu tư cho sản xuất và tăng trưởng kinh tế.

5. Các nhóm quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh Luật an sinh xã hội

Nhóm thứ nhất: Quan hệ bảo hiểm xã hội 

Quan hệ bảo hiểm xã hội là tổng hợp các quan hệ kinh tế – xã hội hình thành trong lĩnh vực bảo đảm trợ cấp cho người lao động trong trường hợp họ gặp những rủi ro trong quá trình lao động khiến khả năng lao động giảm sút hoặc khi già yếu không còn khả năng lao động. Theo ILO, bảo hiểm xã hội là trụ cột chính hoặc cơ chế chính trong an sinh xã hội. Bởi vì ngoài bảo hiểm xã hội (Social insurance), hệ thống an sinh hay an toàn xã hội còn bao gồm cứu trợ xã hội (Social asistance), các chế độ trợ cấp và dịch vụ khác.

Quan hệ về bảo hiểm xã hội có một số điểm đặc trưng sau:

– Đối tượng hưởng bảo hiểm chủ yếu áp dụng đối với người lao động hiểu theo nghĩa rộng. Đó có thể là công chức, cán bộ nhà nước, người lao động làm công ăn lương”, người lao động ở các khu vực kinh tế khác và những người phục vụ trong lực lượng vũ trang.

– Hình thức bảo hiểm thường có hai loại là bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện. Với cách thức bảo hiểm bắt buộc thì mức độ đóng góp và các chế độ được hưởng được quy định cụ thể trong văn bản pháp luật. Còn với cách thức bảo hiểm tự nguyện thì pháp luật thường có quy định mở để cho người tham gia bảo hiểm tự lựa chọn mức thu nhập cần bảo hiểm để đóng góp và hưởng chế độ bảo hiểm.

– Nguồn trợ cấp bảo hiểm do “các bên” tham gia bảo hiểm đóng góp, chủ yếu là ba bên: Người lao động, người sử dụng lao động, sự hỗ trợ của Nhà nước. Từ sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm theo tỷ lệ quy định và hình thành nên quỹ bảo hiểm xã hội. Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tiền tệ tập trung, do đơn vị chức năng quản lý thống nhất theo chế độ tài chính, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ.

– Mức trợ cấp bảo hiểm chủ yếu căn cứ vào mức độ đóng góp của người lao động vào quỹ bảo hiểm xã hội nhiều hay ít và mức độ rủi ro, thương tật của người lao động cao hay thấp. Về cơ bản, mức hưởng bảo hiểm được cửa hàng triệt theo nguyên tắc “phân phối theo lao động”. Tuy nhiên, trong một số trường hợp còn vận dụng cả nguyên tắc tương trợ “lấy số đông bù số ít”.

– Chế độ hưởng và thời gian hưởng bảo hiểm bao gồm các chế độ trợ cấp như: Ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất và thất nghiệp. Thời gian hưởng trợ cấp thường là ổn định và lâu dài.

Quan hệ về bảo hiểm được phân ra làm hai loại:

– Quan hệ trong việc tạo lập quỹ bảo hiểm xã hội (nguồn trợ cấp);

– Quan hệ trong việc thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội (chi trả các khoản trợ cấp).

Nhóm thứ hai: Quan hệ cứu trợ xã hội 

Cứu trợ xã hội bao gồm tổng hợp các cách thức và biện pháp khác nhau nhằm trợ giúp các đối tượng thiệt thòi, yếu thể hoặc bị hẫng hụt trong cuộc sống mà bản thân họ không có đủ khả năng tự lo liệu, giải quyết được. Thông qua sự trợ giúp mà tạo cho họ điều kiện tồn tại và cơ hội hoà nhập với cộng đồng, từ đó góp phần đảm bảo ổn định và công bằng xã hội. Quan hệ cứu trợ xã hội là quan hệ hình thành giữa “người cứu trợ” và “người được cứu trợ”. Người cứu trợ là người có trách nhiệm hoặc là người có khả năng cứu trợ. Đó có thể là Nhà nước, cộng đồng nhân dân trong nước và cộng đồng quốc tế. Người được cứu trợ là những cá nhân công dân thực sự có nhu cầu cứu trợ, do đang gặp những hoàn cảnh rủi ro, bất hạnh.

Nhìn chung, quan hệ về cứu trợ xã hội có một số những điểm đặc trưng sau:

– Đối tượng cứu trợ là các công dân nói chung đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn về vật chất và tinh thần. Đó có thể là người có quan hệ lao động hoặc không có quan hệ lao động, có thể là người già hoặc trẻ em, người tàn tật, người lang thang, người mắc các chứng bệnh xã hội…

– Hình thức cứu trợ chủ yếu gồm hai cách thức là cứu trợ thường xuyên và cứu trợ đột xuất. Cứu trợ thường xuyên thường áp dụng đối với những người hoàn toàn không thể tự lo được cuộc sống trong thời gian dài hoặc trong suốt cả cuộc đời của họ. Cứu trợ đột xuất thường áp dụng đối với những người không may bị thiên tai mất mùa hoặc gặp những biến cố bất thường mà không có nguồn sinh sống tức thời.

– Nguồn cứu trợ chủ yếu là từ ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn ủng hộ của nhân dân và cộng đồng quốc tế. Người thụ hưởng không phải đóng góp bất kỳ khoản nào vào quỹ cứu trợ.

– Mức trợ cấp và thời gian hưởng trợ cấp cấp căn cứ chủ nếu vào mức độ khó khăn của người được cứu trợ và vào nguồn cứu trợ. Ngoài trợ cấp bằng tiền, có thể có trợ giúp bằng hiện vật.

Nhóm thứ ba: Quan hệ ưu đãi xã hội 

Ưu đãi xã hội (social privilege) là sự đãi ngộ về vật chất và tinh thần đối với những người có công với nước, với dân, với cách mạng (và thành viên của gia đình) nhằm ghi nhận những công lao đóng góp, hy sinh cao cả của họ. Trong hệ thống an sinh xã hội Việt Nam, ưu đãi xã hội có vị trí to lớn và đặc biệt. Nó có vị trí to lớn, vì trải qua những năm tháng lâu dài, gian khổ của chiến tranh giữ nước thì số lượng những thương binh, liệt sỹ, người có công với cách mạng là khá lớn (khoảng 6.3 triệu người, chiếm tỷ lệ trên 8% dân số). Nó đặc biệt, vì ưu đãi xã hội trở thành một bộ phận cần thiết trong hệ thống pháp luật về an sinh xã hội là một nét đặc thù của pháp luật an sinh xã hội của Việt Nam. Điều này chẳng những thể hiện trách nhiệm xã hội của Nhà nước mà còn nói lên đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của dân tộc.

Quan hệ ưu đãi xã hội hình thành giữa hai bên: “người ưu đãi” và “người được ưu đãi”. Người ưu đãi thường là Nhà nước, người uỷ quyền và thay mặt cho quốc gia có trách nhiệm đền ơn đáp nghĩa đối với những cống hiến, hy sinh của người có công.

Mặt khác, người ưu đãi cũng còn bao gồm các tổ chức, cộng đồng nhân dân trong nước cũng như nước ngoài. Người được ưu đãi là những cá nhân đã có những cống hiến, hy sinh trong sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người được ưu đãi, trong một số trường hợp cũng còn có thể là thân nhân của người có công.

Quan hệ ưu đãi xã hội có một số điểm đặc trưng sau:

– Đối tượng ưu đãi là người có công với cách mạng và thân nhân của họ, bao gồm: Người hoạt động cách mạng trước tháng tám năm 1945, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ; anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; bà mẹ Việt Nam anh hùng; anh hùng lao động, thương binh, bệnh binh…

– Nguồn trợ cấp ưu đãi chủ yếu do ngân sách nhà nước cấp. Mặt khác, còn được huy động từ các nguồn đóng góp của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong nước và ngoài nước.

– Chế độ ưu đãi bao gồm các chế độ trong các lĩnh vực khác nhau như: Y tế, giáo dục đào tạo, lao động, việc làm, trợ cấp trong đời sống sinh hoạt…

– Mức trợ cấp ưu đãi và thời gian hưởng: Mức trợ cấp căn cứ vào thời gian và mức độ cống hiến, hy sinh của người có công. Nhìn chung, mức trợ cấp đảm bảo sao cho đời sống vật chất và tinh thần của người hưởng trợ cấp ít nhất bằng mức sống trung bình của người dân ở nơi họ cư trú. Thời gian hưởng trợ cấp ưu đãi tương đối ổn định, lâu dài.

Nhóm thứ tư: Quan hệ bảo hiểm y tế 

Quan hệ bảo hiểm y tế là các quan hệ xã hội hình thành giữa người tham gia bảo hiểm y tế, tổ chức bảo hiểm y tế và cơ sở khám chữa bệnh bảo hiểm y tế trong quá trình chăm sóc sức khoẻ, không vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ chức thực hiện.

– Đối tượng tham gia bảo bảo hiểm y tế chủ yếu là các công dân Việt Nam, không phân biệt theo bất cứ tiêu chí nào.

– Nguồn kinh phí thực hiện bảo hiểm y tế chủ yếu là từ nguồn đóng bảo hiểm y tế theo hướng dẫn của Nhà nước.

– Chế độ bảo hiểm y tế cho người tham gia chủ yếu bao gồm các chi phí về chăm sóc y tế, thuốc chữa bệnh và vật tư y tế… theo yêu cầu khám chữa bệnh và theo hướng dẫn.

6. Những quan hệ xã hội là đối tượng của luật anh sinh xã hội Việt Nam 

Như tên gọi của nó, đối tượng của luật an sinh xã hội là những quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực an sinh xã hội. An sinh xã hội là một vấn đề phong phú, phức tạp. là một khái niệm mở” nên có thể hiểu theo hai nghĩa: Rộng và hẹp.

Theo nghĩa rộng, an sinh xã hội bao trùm lên nhiều mặt cuộc sống của con người. Đó là các quan hệ hình thành tronlĩnh vực nhằm ổn định đời sống, nâng cao chất lượng sống của các thành viên xã hội, góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội. Theo nghĩa này, an sinh xã hội có thể bao gồm các nhóm quan hệ sau:

– Nhóm quan hệ trong lĩnh vực giải quyết việc làm, chống thất nghiệp:

– Nhóm quan hệ trong lĩnh vực chăm sóc y tế, bảo vệ sức khoẻ nhân dân; nhóm quan hệ trong lĩnh vực dân số, kế hoạch hoá gia đình:

– Nhóm quan hệ trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội;

– Nhóm quan hệ trong lĩnh vực cứu trợ xã hội;

– Nhóm quan hệ trong lĩnh vực tru đãi xã hội;

– Nhóm quan hệ trong lĩnh vực môi trường…

Theo nghĩa hẹp, an sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình, trước hết và chủ yếu là những trường hợp bị giảm sút thu nhập đáng kể do gặp những rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, mất việc mất người nuôi dưỡng, nghỉ thai sản, về già cũng như các trường hợp bị thiên tai, địch hoa. Đồng thời, xã hội cũng thu đãi những thành viên của mình đã có những hành động xả thân vì nước, vì dân, có những cống hiến đặc biệt cho sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Theo nghĩa này, an sinh xã hội bao gồm các nhóm quan hệ chủ yếu sau:

– Nhóm các quan hệ bảo hiểm xã hội; .

– Nhóm các quan hệ cứu trợ xã hội;

– Nhóm các quan hệ ưu đãi xã hội;

– Nhóm các quan hệ bảo hiểm y tế.

Đây cũng chính là các nhóm quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh chủ yếu của luật an sinh xã hội Việt Nam. Dưới đây chúng ta sẽ xem xét cụ thể từng nhóm quan hệ ấy.

Trên đây là một số thông tin về phương pháp điều chỉnh của luật an sinh xã hội. Hy vọng với những thông tin LVN Group đã gửi tới sẽ giúp bạn trả lời được những câu hỏi về vấn đề trên. Nếu bạn cần hỗ trợ hãy đừng ngần ngại mà liên hệ với Công ty Luật LVN Group, để được chúng tôi hỗ trợ nhanh chóng. LVN Group cam kết sẽ giúp bạn có trải nghiệm tốt nhất về các dịch vụ mà mình gửi tới đến khách hàng. Chúng tôi luôn đồng hành pháp lý cùng bạn.

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com