Những hạn chế còn tồn tại trong Luật cư trú 2020 - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Những hạn chế còn tồn tại trong Luật cư trú 2020

Những hạn chế còn tồn tại trong Luật cư trú 2020

Ngày 13/11/2020, Quốc hội ban hành Luật Cư trú 2020 gồm 07 chương và 38 điều. Luật này quy định về việc thực hiện quyền tự do cư trú của công dân Việt Nam trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; việc đăng ký, quản lý cư trú; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân, đơn vị, tổ chức về đăng ký, quản lý cư trú. Từ ngày 1-7-2021, Luật Cư trú sẽ chính thức có hiệu lực. Dưới đây là những hạn chế còn tồn tại trong Luật cư trú 2020.

Những hạn chế còn tồn tại trong Luật cư trú 2020

1.Điểm mới Luật cư trú 2020

Vào năm 2023, sổ hộ khẩu, sổ tạm trú sẽ hết hiệu lực

Kể từ ngày 1-7-2021, ngày Luật Cư trú (sửa đổi) có hiệu lực, sổ hộ khẩu, sổ tạm trú đã được cấp vẫn được sử dụng và có giá trị như giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú cho đến hết ngày 31-12-2023.

Đặc biệt, nếu thông tin trong sổ hộ khẩu, sổ tạm trú khác với thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú thì sử dụng thông tin trong cơ sở dữ liệu về cư trú. Vì vậy, từ ngày 1-1-2023, sổ hộ khẩu, sổ tạm trú “giấy” sẽ không còn được sử dụng nữa.

Khi nào sổ hộ khẩu bị thu hồi?

Cũng theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 38 Luật Cư trú 2020: Khi công dân thực hiện các thủ tục đăng ký cư trú dẫn đến thay đổi thông tin trong sổ hộ khẩu, sổ tạm trú thì đơn vị đăng ký cư trú có trách nhiệm thu hồi sổ hộ khẩu, sổ tạm trú đã cấp, thực hiện điều chỉnh, cập nhật thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú theo hướng dẫn của Luật này và không cấp mới, cấp lại sổ hộ khẩu, sổ tạm trú. Trong đó, các thủ tục đăng ký cư trú dẫn đến thay đổi thông tin trong sổ hộ khẩu, sổ tạm trú được quy định tại Điều 26 Luật Cư trú 2020 gồm:

– Thay đổi chủ hộ.

– Thay đổi thông tin về hộ tịch so với thông tin đã được lưu trữ trong Cơ sở dữ liệu về cư trú.

– Thay đổi địa chỉ nơi cư trú trong Cơ sở dữ liệu về cư trú do có sự điều chỉnh về địa giới đơn vị hành chính, tên đơn vị hành chính, tên đường, phố, tổ dân phố, thôn, xóm, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, cách đánh số nhà.

Vì vậy, trong 3 trường hợp nêu trên, sổ hộ khẩu sẽ bị thu hồi.

Quản lý công dân bằng thông tin trên Cơ sở dữ liệu về dân cư

Khoản 4 Điều 3 Luật Cư trú 2020 quy định: Thông tin về cư trú phải được cập nhật vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú theo hướng dẫn của pháp luật; tại một thời gian, mỗi công dân chỉ có một nơi thường trú và có thể có thêm một nơi tạm trú. Đồng thời, khi đăng ký thường trú, khoản 3 Điều 22 Luật này nêu rõ, đơn vị đăng ký cư trú sẽ thẩm định, cập nhật thông tin về nơi thường trú mới của người đăng ký vào Cơ sở dữ liệu về cư trú, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và thông báo cho người dân về việc cập nhật.

Vì vậy, từ ngày 1-7-2021, việc quản lý cư trú của công dân sẽ được chuyển từ thủ công, truyền thống thông qua sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy sang quản lý bằng số hóa, thông qua Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, về cư trú và số định danh cá nhân.

Bỏ nhiều nhóm thủ tục hành chính liên quan đến sổ hộ khẩu

Theo Luật Cư trú, từ ngày 1-7-2021 không cấp mới, cấp lại sổ hộ khẩu, sổ tạm trú nên hàng loạt những thủ tục liên quan đến sổ hộ khẩu, sổ tạm trú không còn được đề cập đến trong Luật này. Căn cứ:

– Tách sổ hộ khẩu: Thay vào đó sẽ cập nhật, điều chỉnh thông tin về hộ gia đình liên quan đến việc tách hộ trong Cơ sở dữ liệu về cư trú và thông báo cho người đăng ký về việc đã cập nhật thông tin này.

– Điều chỉnh thay đổi thông tin về cư trú: Rà soát, điều chỉnh trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú… khi đủ điều kiện thì làm thủ tục đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú…

2.Những hạn chế còn tồn tại trong Luật cư trú 2020

Thứ nhất, chưa cập nhật 100% các hộ gia đình có sổ hộ khẩu lên hệ thống dữ liệu quốc gia về dân cư:
Từ 1/7 đơn vị công an đã tiến hành quản lý cư trú trên hệ thống dữ liệu. Việc chuyển khẩu, nhập khẩu, tách khẩu của các cá nhân, hộ gia đình đều được thực hiện trên hệ thống tuy nhiên với lý do không phải tất cả 100% các hộ gia đình trên lãnh thổ Việt Nam đều đã được cập nhật lên hệ thống dữ liệu do đó khi cá nhân thực hiện các thủ tục đăng ký cư trú thì được đơn vị công an kiểm tra trên hệ thống và thông báo hiện nay hộ gia đình mình chưa được cấp nhật lên hệ thống và chưa thể tiến hành việc thực hiện chuyển khẩu, tách khẩu, nhập khẩu.
Thứ hai, các trường hợp ở nhờ, thuê nhà:
Khi luật cư trú 2006 còn hiệu lực, công với Luật thủ đô và các nghị định hướng dẫn dưới Luật thì đối với khu vực các TP trực thuộc trung ương thì diện tích tối thiểu trên bình quân đầu người là 15m2/ người. Khi Luật cư trú 2020 có hiệu lực. Tại điềm b khoản 3 điều 20 quy định: “Bảo đảm điều kiện về diện tích nhà ở tối thiểu do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định nhưng không thấp hơn 08 m2 sàn/người”.
Tuy nhiên, hiện nay đã 10 ngày kể từ ngày Luật cư trú 2020 có hiệu lực thì chúng ta vẫn chưa thấy được 1 văn bản nào của HĐND thành phố quy định về diện tích bình quân đầu người cụ thể. Điều này dẫn tới đơn vị công an hiện nay đang căn cứ vào điều này để từ chối nhận hồ sơ đầu vào với lý do chờ văn bản hướng dẫn?
Câu hỏi đặt ra là chờ đến bao giờ? Như chúng ta đã thấy Luật cư trú 2006 có hiệu lực, luật thủ đô 2012 nhưng mãi đến 17/7/2013 HĐND TP mới ra Nghị Quyết 11/2013/NQ-HĐND quy định về diện tích bình quân đầu người đới với nhà thuê ở nội thành để công dân đăng ký thường trú ở nội thành Hà Nội. Nghi quyết này được gia hạn đến hết năm 2020. Tuy nhiên Nghị quyết 11/2013/NQ-HĐND chỉ quy định diện tích tối thiểu là 15m2/ người là đối với diện thuê nhà. Vì vậy với trường hợp cho ở nhờ chúng ta chưa thấy được có văn bản nào hướng dẫn cụ thể.

Trên đây là trả lời của LVN Group về những hạn chế còn tồn tại trong Luật cư trú 2020. Nếu quý khách còn bất kỳ câu hỏi nào hãy liên hệ đội ngũ chuyên gia của LVN Group để được trả lời nhanh nhất.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com