Bình luận về tội trộm cắp tài sản BLHS 2015 - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Bình luận về tội trộm cắp tài sản BLHS 2015

Bình luận về tội trộm cắp tài sản BLHS 2015

Nạn trộm cắp tài sản đang hoành hành ở nhiều địa phương trên đất nước Việt Nam. Trộm cắp tài sản là hành vi vi phạm pháp luật xuất hiện ngày càng phổ biến trong xã hội với nhiều cách thức, biến tướng khác nhau. Trong Bộ luật hình sự Việt Nam đã ghi nhận tội trộm cắp tài sản. Các yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản quy định thế nào. Sau đây LVN Group sẽ bình luận về tội trộm cắp tài sản BLHS 2015.

Bình luận về tội trộm cắp tài sản BLHS 2015

1. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan của tội Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có người quản lý.

– Theo từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam: Trộm cắp tài sản là “hành vi lén lút bí mật đối với người quản lý tài sản để chiếm đoạt tài sản”.

– Chiếm đoạt được hiểu là “hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang được sự quản lý của chủ sở hữu tài sản thành tài sản của mình”. Trên thực tiễn, hành vi chiếm đoạt làm cho chủ sở hữu tài sản (là người có trọn vẹn 3 quyền là quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản) không thể thực hiện được các quyền năng đối với tài sản của họ hoặc làm cho người quản lý tài sản (là người đang nắm giữ hoặc trông coi tài sản, không có đủ 3 quyền của chủ sở hữu) không thể thực hiện được các quyền năng đối với tài sản được giao quản lý, đồng thời những quyền này lại thuộc về người phạm tội và người này có thể thực hiện được các quyền này một cách trái pháp luật.

– Hành vi lén lút của tội phạm là lén lút đối với việc chiếm đoạt tài sản, nhằm che giấu hành vi phạm tội để chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết việc chiếm đoạt đó. Đây cũng là dấu hiệu để phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản với các tội có tính chiếm đoạt khác (như tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội cướp tài sản…).

Việc che giấu hành vi phạm tội có thể được thực hiện bằng những cách thức khác nhau, cụ thể là:

Che giấu toàn bộ hành vi: Trường hợp này, chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết được bất cứ thông tin nào về người phạm tội cũng như hành vi phạm tội (Ví dụ: Lợi dụng đêm tối, lẻn vào nhà người khác lấy trộm tài sản).

Che giấu một phần hành vi: Tức chỉ che giấu riêng hành vi phạm tội (Ví dụ: giả vờ hỏi đường, xin ngủ nhờ để có điều kiện tiếp cận tài sản rồi thực hiện hành vi chiếm đoạt). Trong trường hợp này chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản biết rõ người phạm tội nhưng không biết hành vi phạm tội.

Che giấu tính chất của hành vi phạm tội: hành vi phạm tội được diễn ra công khai, những người không phải là chủ tài sản vẫn biết sự việc xảy ra nhưng không biết đó là hành vi trộm cắp tài sản. (Ví dụ: Lợi dụng thủ kho đi vắng, mở cửa kho chuyển hàng lên ô tô như là có việc xuất hàng bình thường, trước sự chứng kiến của nhiều người) hoặc có thể người phạm tội thực hiện hành vi lén lút với người bị hại nhưng công khai, không che giấu với những người khác (Ví dụ: hành vi móc túi ở nơi công cộng).

– Tài sản được coi là đang có người quản lý là tài sản sau:

Tài sản đang ở trong sự chiếm hữu của người khác, nghĩa là đang nằm trong sự chi phối, kiểm soát về mặt thực tiễn của chủ tài sản hoặc người có trách nhiệm quản lý (Ví dụ: điện thoại, tiền đang ở trong túi áo)

Tài sản đang còn trong khu vực quản lý, bảo quản của chủ tài sản: Đây là trường hợp tài sản tuy đã thoát ly khỏi sự chi phối, kiểm soát về mặt thực tiễn của chủ tài sản hoặc của người có trách nhiệm nhưng vẫn nằm trong phạm vi thuộc khu vực bảo quản. Ví dụ: Hàng hóa được thuê để trong nhà kho, có tường rào bảo vệ

– Tội trộm cắp tài sản được coi là hoàn thành kể từ khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. Để đánh giá người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa, đã làm chủ được tài sản hay chưa phải dựa vào đặc điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt. Theo thực tiễn xét xử, những trường hợp sau được coi là “đã chiếm đoạt được tài sản”:

Nếu vật chiếm đoạt gọn nhỏ thì coi đã chiếm đoạt được khi người phạm tội đã giấu được tài sản trong người.

Nếu vật chiếm đoạt không thuộc loại nói trên thì coi chiếm đoạt được khi đã mang được tài sản ra khỏi khu vực bảo quản.

Nếu vật chiếm đoạt là tài sản để ở những nơi không hình thành khu vực bảo quản riêng thì coi là đã chiếm đoạt được khi đã dịch chuyển tài sản khỏi vị trí ban đầu. Ví dụ: A lén vào nhà B trộm cắp tài sản, khi A đã lấy được tài sản đem ra góc tường nhà B, chưa kịp đem số tài sản trên đi thì bị phát hiện. Trong trường hợp này, A đã phạm tội trộm cắp tài sản.

Trường hợp người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản nhưng bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì hành vi của người phạm tội chuyển hóa từ  tội TCTS sang tội cướp tài sản.

Nếu một người có ý định trộm cắp tài sản của người khác nhưng chưa thực hiện được hành vi chiếm đoạt tài sản mà bị phát hiện thì tùy trường hợp có thể bị truy cứu TNHS về tội trộm cắp tài sản.

Hành vi trộm cắp tài sản cấu thành tội trộm cắp tài sản khi thỏa mãn một trong các dấu hiệu sau (đây là cấu thành cơ bản, tức khoản 1, thuộc tội phạm ít nghiêm trọng):

Tài sản trộm cắp trị giá từ 02 triệu đồng trở lên: Việc xác định giá trị tài sản đối với tội trộm cắp tài sản cần chú ý một số điểm sau đây: Giá trị tài sản bị chiếm đoạt được xác định theo giá trị thị trường của tài sản đó tại địa phương vào thời gian tài sản bị xâm phạm. Trong trường hợp có trọn vẹn căn cứ chứng minh rằng người có hành vi TCTS có ý định xâm phạm đến tài sản có giá trị cụ thể theo ý thức chủ quan của họ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét việc truy cứu TNHS đối với người đó. Trường hợp có trọn vẹn căn cứ chứng minh rằng người có hành vi trộm cắp tài sản có ý định xâm phạm đến tài sản, nhưng không quan tâm đến giá trị tài sản bị xâm phạm (giá trị bao nhiêu cũng được), thì lấy giá thị trường của tài sản bị trộm cắp tại địa phương vào thời gian tài sản bị xâm phạm để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó.

Ví dụ: Trộm cắp dây chuyền vàng đem bán thì mới biết là vàng giả thì vẫn bị truy cứu TNHS về tội TCTS.

Nếu giá trị tài sản dưới 02 triệu đồng thì phải thuộc một trong các trường hợp:

  1. a) Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản (có thể là hành vi trộm cắp tài sản hoặc hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc hành vi chiếm đoạt khác) mà còn vi phạm.
  2. b) Đã bị kết án về tội TCTS hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168 (Tội Cướp tài sản), 169 (Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản), 170 (Tội cưỡng đoạt tài sản), 171 (Tội cướp giật tài sản), 172 (Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản), 174 (Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản), 175 (Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ) và 290 (Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản) của Bộ luật hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
  3. c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội: là gây ra những tác động xấu đến tình hình an ninh, tác động tiêu cực đến trật tự, an toàn xã hội mà cụ thể là gây hoang mang, lo sợ hoặc phẫn nộ trong nhân dân; gây khó khăn trong việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Khi áp dụng tình tiết này phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Ví dụ: Đối tượng liên tục thực hiện những vụ trộm cắp tài sản vào ban đêm gây ra tâm lý hoang mang, lo lắng, bất an cho người dân về tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.

  1. d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ. Việc xác định tài sản trộm cắp là phương tiện sống chính của người bị hại và gia đình thì tài sản đó phải là tài sản đặc biệt cần thiết, là chỗ dựa, phương tiện mưu sinh duy nhất của người bị hại và gia đình mà nếu mất đi tài sản đó thì người bị hại và gia đình lâm vào tình trạng khó khăn.
  2. e) Tài sản là di vật (hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, cổ vật); cổ vật (là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hoá, khoa học, có từ 100 năm tuổi trở lên).

Mặt khác theo hướng dẫn tại Mục I.3 của Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao thì: Trường hợp một người nhiều lần thực hiện hành vi TCTS, nhưng mỗi lần trị giá tài sản bị xâm phạm dưới 2 triệu đồng và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu TNHS, đồng thời trong các hành vi xâm phạm đó không có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính, nếu tổng trị giá tài sản của các lần bị xâm phạm bằng hoặc trên 2 triệu đồng, thì người đó phải bị truy cứu TNHS về tội TCTS, nếu các hành vi xâm phạm sở hữu được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.

2.Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội trộm cắp tài sản cũng tương tự như tội có tính chất chiếm đoạt khác, đó là quan hệ sở hữu. Khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thì người phạm tội chỉ thực hiện lén lút chiếm đoạt tài sản, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà không có bất kỳ hành vi nào xâm hại đến các quan hệ xã hội khác(ví dụ như quan hệ nhân thân).

Đây cũng là một điểm khác với các tội cướp tài sản, tội cướp giật tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội trộm cắp tài sản nhà làm luật không quy định tổn hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt.

Nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt mà có hành vi chống trả để tẩu thoát, gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Về đối tượng tác động của tội TCTS

Đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản là tài sản của người khác đang có người quản lý. Theo quy định tại Điều 105 BLDS 2015 thì “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”.

– Theo BLDS, tài sản có thể là động sản hoặc bất động sản. Với tính chất hành vi chiếm đoạt của tội TCTS thì chỉ có động sản mới là đối tượng tác động của tội TCTS. Tuy nhiên, trong những trường hợp nếu bất động sản lại thuộc vật đồng bộ (như: các bộ phận được lắp vào khung căn nhà, các vật dụng, thiết bị gắn liền với quyền sử dụng đất…) có thể tách rời được thì những tài sản tách rời được có thể là đối tượng tác động của tội TCTS.

– Tài sản là đối tượng tác động của tội TCTS có thể là tài sản hợp pháp tức là những loại tài sản được xác lập quyền sở hữu cho chủ sở hữu hoặc có thể là tài sản bất hợp pháp như do phạm tội, vi phạm pháp luật (hành chính, dân sự) mà có.

Ví dụ: A lái xe mô tô chở B cướp giật dây chuyền của chị C. Cả 02 thỏa thuận, A sẽ giữ sợi dây chuyền, đến sáng hôm sau sẽ mang đi bán. Tối hôm đó, lợi dụng lúc A ngủ say, B lén lấy sợi dây này rồi đem bán. Sợi dây chuyền là tài sản bất hợp pháp (do phạm tội mà có) nhưng B vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội TCTS.

– Trong một số trường hợp, người thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt các tài sản sau không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội TCTS mà bị truy cứu TNHS về các tội danh khác tương ứng với hành vi mà BLHS quy định. Căn cứ:

– Khi xác định tài sản bị chiếm đoạt thuộc cách thức sở hữu chung, cần làm rõ đó là cách thức sở hữu chung hợp nhất hay cách thức sở hữu chung theo phần. Nếu tài sản bị chiếm đoạt là cách thức sở hữu chung hợp nhất không thể là đối tượng tác động của tội TCTS. Riêng sở hữu chung theo phần thì có thể là đối tượng tác động của tội TCTS nhưng phần đó phải rõ ràng tách bạch với phần sở hữu của các chủ sở hữu khác.

3.Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội trộm cắp tài sản là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự (đủ tuổi, có năng lực hành vi dân sự).

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản theo khoản 3, 4 điều 173 Bộ luật Hình sự (thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng), không phải chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 (ít nghiêm trọng) và khoản 2 (nghiêm trọng).

4.Mặt chủ quan của tội phạm

Tội trộm cắp tài sản được người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt biết tài sản chiếm đoạt là tài sản đang thuộc quyền sở hữu của người khác hoặc đang có người quản lý nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành tài sản của mình khi thực hiện hành vi chiếm đoạt.

Trường hợp có trọn vẹn căn cứ chứng minh rằng người có hành vi trộm cắp có ý định xâm phạm đến tài sản có giá trị cụ thể theo ý thức chủ quan của họ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét truy cứu TNHS về tội TCTS.

Trường hợp có trọn vẹn căn cứ chứng minh rằng người có hành vi TCTS có ý định xâm phạm đến tài sản, nhưng không quan tâm đến giá trị tài sản  đó (trị giá bao nhiêu cũng được), thì lấy giá thị trường của tài sản bị xâm phạm tại địa phương vào thời gian tài sản bị xâm phạm để xem xét truy cứu TNHS về tội TCTS

Trên đây là bình luận về tội trộm cắp tài sản BLHS 2015. Nếu quý khách còn bất kỳ câu hỏi nào hãy liên hệ đội ngũ chuyên gia của LVN Group để được trả lời nhanh nhất.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com