Phương thức, thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Phương thức, thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Phương thức, thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Thực tế thấy được rằng việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra rất phổ biến vậy tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo hướng dẫn mới nhất hiện nay thế nào? Mời quý bạn đọc hãy cùng nghiên cứu vấn đề này qua nội dung nội dung trình bày dưới đây.

Phương thức, thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là gì?

Theo quy định tại Điều 174 – Bộ luật hình sự năm 2015 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa đơn vị, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
g) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

2. Phân tích cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo hướng dẫn mới nhất

Các yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Mặt khách quan: Mặt khách quan của tội này có các dấu hiệu sau:
– Về hành vi. Có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản.
Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả (không đúng sự thật) nhưng làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ viết (viết thư), bằng hành động… (ví dụ: Kẻ phạm tội nói là mượn xe đi chợ nhưng sau khi lấy được xe đem bán lấy tiền tiêu xài không trả xe cho chủ sở hữu) và bằng nhiều cách thức khác như giả vờ vay, mượn, thuê để chiếm đoạt tài sản.
Chiếm đoạt tài sản, được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình. Đặc điểm của việc chiếm đoạt này là nó gắn liền và có mối quan hệ nhân quả với hành vi dùng thủ đoạn gian dối.
Vì vậy, có thể phân biệt với những trường hợp dùng thủ đoạn gian dối khác, chẳng hạn dùng thủ đoạn cân, đong, đo, đếm gian dối chỉ nhằm ăn gian, bớt hàng của khách hàng hoặc để bán hàng giả để thu lợi bất chính thì không cấu thành tội này mà cấu thành tội lừa dối khách hàng hoặc tội buôn bán hàng giả.
Lưu ý: Thời điểm hoàn thành tội phạm này được xác định từ lúc kẻ phạm tội đã chiếm giữ được tài sản sau khi đã dùng thủ đoạn gian dối để làm cho người chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản bị mắc lừa giao tài sản cho kẻ phạm tội hoặc không nhận tài sản đáng lẽ phải nhận.
Dấu hiệu bắt buộc của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Nếu có hành vi gian dối mà không có hành vi chiếm đoạt (chỉ chiếm giữ hoặc sử dụng), thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người có hành vi gian dối trên bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm giữ trái phép hoặc tội sử dụng trái phép tài sản, hoặc đó chỉ là quan hệ dân sự.
Trường hợp hành vi gian dối, hay hành vi chiếm đoạt cấu thành vào một tội danh độc lập khác, thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà bị truy cứu về những tội danh tương ứng đó. Ví dụ như hành vi gian dối làm tem giả, vé giả… (Điều 164 Bộ luật Hình sự); Hành vi gian dối trong cân đong đo đếm, tính gian, đánh tráo hàng (Điều 162 Bộ luật Hình sự); Hành vi lừa đảo chiếm đoạt chất ma tuý (Điều 194 Bộ luật Hình sự); Hành vi buôn bán sản xuất hàng giả (Điều 156 Bộ luật Hình sự); Hành vi buôn bán sản xuất hàng giả là lương thực thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157); Hành vi buôn bán sản xuất hàng giả là thức ăn dùng chăn nuôi, phân bón thuốc thú y, bảo vệ thực vật, giông cây trồng vật nuôi (Điều 158 Bộ luật Hình sự) đểu có dấu hiệu gian dối.
– Dấu hiệu khác.
+ Về giá trị tài sản chiếm đoạt: Giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ hai triệu đồng trở lên.
+ Nếu dưới hai triệu đồng thì phải thuộc trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kế án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì người thực hiện hành vi nêu trên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.

3. Khi bị lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì trình báo tại đơn vị nào?

Căn cứ Điều 144 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có quy định như sau:
+ Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với đơn vị có thẩm quyền.
+ Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do đơn vị, tổ chức, cá nhân thông báo với đơn vị có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng.
+ Kiến nghị khởi tố là việc đơn vị nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.
+ Tố giác, tin báo về tội phạm có thể bằng lời hoặc bằng văn bản.
+ Người nào cố ý tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo hướng dẫn của luật.
Căn cứ khoản 2 Điều 145 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về trách nhiệm tiếp nhận và thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố như sau:
+ Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gồm:
+ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
+ Cơ quan, tổ chức khác tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm.
– Thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố:
+ Cơ quan điều tra giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo thẩm quyền điều tra của mình;
+ Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo thẩm quyền điều tra của mình;
+ Viện kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục.
Đồng thời căn cứ Điều 5 Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC có quy định về trách nhiệm tiếp nhận, thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm như sau:
+ Các đơn vị, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm:
+ Cơ quan điều tra;
+ Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
+ Viện kiểm sát các cấp;
+ Các đơn vị, tổ chức quy định tại điểm b khoản 2 Điều 145 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 gồm: Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an; Tòa án các cấp; Cơ quan báo chí và các đơn vị, tổ chức khác.
– Thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm:
+ Các đơn vị quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều này, trừ Đội An ninh ở Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây viết gọn là Đội An ninh Công an cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo thẩm quyền điều tra của mình.
Viện kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trong trường hợp phát hiện Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng sau 15 ngày kể từ ngày đơn vị đang thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm nhận văn bản yêu cầu mà không được khắc phục.
Căn cứ khoản 4 Điều 163 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về thẩm quyền điều tra như sau:
Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt.
Vì vậy, khi nhận thấy mình bị lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bạn có thể làm đơn tố giác đến các đơn vị điều tra nơi cư trú (thường trú hoặc tạm trú) cấp quận, huyện, thị xã, viện kiểm sát các cấp; Tòa án hoặc các đơn vị khác tại nơi phát hiện tội phạm, xảy ra tội phạm hoặc nơi cư trú của người có hành vi phạm tội.

4. Phương thức, thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Giả mạo hoặc chiếm quyền sử dụng tài khoản mạng xã hội của người dùng, sau đó nhắn tin lừa đảo bạn bè của họ.
– Đối tượng giả mạo hoặc chiếm quyền sử dụng tài khoản mạng xã hội của người dùng (tấn công, hack nick Facebook, Zalo…). Có trường hợp chiếm đoạt tài khoản vĩnh viễn khiến người dùng không thể truy cập lại để sử dụng, có trường hợp chiếm đoạt tài khoản nhưng hoạt động song song, người dùng vẫn có thể sử dụng nên không phát hiện.
– Khi đã truy cập được vào tài khoản, các đối tượng sẽ nghiên cứu, nghiên cứu sơ lược về các mối quan hệ, các thói quen sinh hoạt, thói quen viết tin nhắn của người bị chiếm đoạt tài khoản để bắt chước cách nhắn tin và tìm kiếm “con mồi”. Sau đó, đối tượng sẽ nhắn tin với người thân quen trong danh sách bạn bè của người bị chiếm đoạt tài khoản để nhờ thanh toán tiền, hoặc mua thẻ cào điện thoại, hoặc chuyển tiền vào một số tài khoản ngân hàng mà các đối tượng đã chuẩn bị sẵn từ trước hòng chiếm đoạt.
– Các tài khoản ngân hàng nhận tiền chiếm đoạt thường là các tài khoản không chính chủ, gồm: tài khoản mua của những người không có nhu cầu sử dụng; tài khoản ảo có sai sót trong việc đăng ký thông tin.
– Cá biệt, có nhiều trường hợp sau khi lừa xong, các đối tượng có thể hỏi mượn nhiều tài khoản của người bị mất tiền để thay đổi thông tin bảo mật tiếp tục hoạt động lừa đảo.

Lừa đảo qua dịch vụ VoIP mạo danh đơn vị Công an, Viện kiểm sát, Toà án đề nghị gửi tới thông tin hỗ trợ điều tra.
– Thời gian qua ở nhiều địa phương trong cả nước, rất nhiều cá nhân đã bị lừa đảo bằng cách thức này với số tiền rất lớn. Thủ đoạn tinh vi này thường được thực hiện bởi các nhóm đối tượng chuyên nghiệp, dưới sự điều hành, chỉ đạo của các đối tượng người nước ngoài như Trung Quốc, Đài Loan, Campuchia…
– Các đối tượng giả danh đơn vị Cảnh sát điều tra, Viện Kiểm Sát, Toà án liên lạc qua điện thoại, gửi các văn bản giả mạo tới nạn nhân, thông báo bị hại có liên quan đến các vụ án đặc biệt nghiêm trọng như: Buôn bán trái phép ma tuý, Rửa tiền, Lừa đảo chiếm đoạt tài sản… đe doạ nạn nhân có thể bị khởi tố, bắt tạm giam hay phong toả các tài khoản ngân hàng. Khi nạn nhân đã tin tưởng, chúng sẽ yêu cầu nạn nhân chuyển tiền vào tài khoản của chúng nhưng lại nói dối rằng đó là số tài khoản tạm giữ tiền của đơn vị chức năng để chúng kiểm tra, xác minh và đảm bảo trong vòng 1 đến 2 ngày sẽ hoàn trả. Tuy nhiên khi nạn nhân chuyển khoản xong chúng sẽ chiếm đoạt và cắt đứt liên lạc.
Ngoài ra, có trường hợp chúng tạo các website giả mạo đơn vị chức năng, yêu cầu nạn nhân nhập các thông tin nhân thân, giấy tờ tuỳ thân, số tài khoản ngân hàng, mật khẩu truy cập, số điện thoại nhận mã xác thực OTP và mã OTP để phục vụ điều tra, xác minh. Nạn nhân không biết rằng việc cung cấp các thông tin trên sẽ giúp đối tượng truy cập vào tài khoản để chiếm đoạt số tiền đang có trong tài khoản. Sau khi có được tiền của nạn nhân, chúng nhanh chóng chuyển tiền đi để chiếm đoạt.
– Có trường hợp các đối tượng tạo webite giả mạo Cục Cảnh sát giao thông, đồng thời gọi điện thoại cho nạn nhân để thông báo nạn nhân đã vi phạm Luật giao thông đường bộ thông, gây tai nạn giao thông… qua việc tra cứu, giám sát từ hệ thống camera của Cục Cảnh sát giao thông, từ đó đã ra quyết định xử phạt hành chính. Với mục đích giúp các nạn nhân không tốn thời gian đi nộp phạt hoặc giảm uy tín cá nhân nên các đối tượng liên tục gọi điện và dẫn dắt nạn nhân gặp đồng bọn giả danh cán bộ đơn vị Công an, Viện kiểm sát, Tòa án yêu cầu cung cấp thông tin cá nhân, thông tin tài khoản tiết kiệm, thẻ ngân hàng, làm giả các hình ảnh giấy triệu tập, biên bản vi phạm hành chính… đề nghị nạn nhân đăng ký mới tài khoản, chuyển mã OTP hoặc chuyển tiền vào tài khoản chỉ định trước của chúng để chiếm đoạt.
– Một số trường hợp đối tượng còn giả mạo đơn vị Cảnh sát phòng cháy chữa cháy để liên lạc các cơ sở kinh doanh trên địa bàn yêu cầu đóng tiền tập huấn, mua tài liệu tập huấn phòng cháy thông qua cách thức chuyển khoản ngân hàng.

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua mạng xã hội kết bạn, xây dựng tình cảm và hứa hẹn gửi quà có giá trị.
– Các đối tượng lừa đảo bằng cách thức này thường là người ngước ngoài (Nigieria, Châu Phi, Campuchia…). Thủ đoạn của các đối tượng là:
+ Thông qua mạng xã hội như Zalo, Facebook, Twiter, Instagram… các đối tượng làm quen và kết bạn với các nạn nhân.
+ Đối tượng tự giới thiệu mình là phi công, kỹ sư, quân nhân, doanh nhân… đang sinh sống và công tác tại nước ngoài và tâm sự những chuyện riêng tư nhằm tạo niềm tin rồi hứa hẹn tặng quà, hứa kết hôn và bảo lãnh nạn nhân đi nước ngoài hoặc ngỏ ý muốn giúp đỡ tạo điều kiện để nạn nhân kinh doanh.
+ Sau khi nạn nhân tin tưởng thì các đối tượng thông báo sẽ chuyển tiền hoặc đồ vật có giá trị từ nước ngoài về Việt Nam.
+ Tiếp đến, các đối tượng cho người đóng giả làm chuyên viên Hải quan, Thuế hoặc Công an… gọi điện thoại thông báo với nạn nhân là quà tặng bị giam giữ khi về đến sân bay, bến cảng do có giá trị lớn chưa nộp thuế nên buộc các nạn nhân phải chuyển tiền để nộp thuế hoặc “hối lộ” cho cán bộ Hải quan, Công an…
+ Sau đó các đối tượng gửi tới số tài khoản cho các nạn nhân, yêu cầu chuyển tiền để chiếm đoạt. Các đối tượng này thường chia làm 3 nhóm:
(1) Nhóm các đối tượng ở nước ngoài kết bạn làm quen, nhắn tin tâm sự để lừa nạn nhân chuyển tiền.
(2) Nhóm đối tượng ở Việt Nam làm quen với người ở Việt Nam, nhờ mở tài khoản hoặc nhận làm cán bộ Hải quan, Công an Việt Nam để gọi điện cho nạn nhân.
(3) Nhóm các đối tượng rút tiền sử dụng các thẻ Visa, Master của ngân hàng như VPbank, Sacombank… mở tại Việt Nam nhưng có thể rút tiền mặt tại nước ngoài.

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua cách thức Phishing lấy cắp thông tin tài khoản InternetBanking và mã OTP của khách hàng để truy cập trái phép rồi rút tiền.
Thủ đoạn của loại tội phạm này là: Thông qua một lý do cụ thể để yêu cầu, dụ dỗ, hoặc ép buộc nạn nhân truy cập vào trang website hoặc ứng dụng trên ĐTDĐ (app) có giao diện giả mạo hệ thống chuyên nghiệp (của ngân hàng, của đơn vị Nhà nước, của Công ty tổ chức uy tín…), tại đó nạn nhân cần điền các thông tin cá nhân, thông tin đăng nhập InternetBanking, số điện thoạị nhận mã OTP, gửi tới mã xác thực bảo mật OTP. Ngay khi nạn nhân điền các thông tin này, các đối tượng sẽ có thể truy cập trái phép vào tài khoản ngân hàng của nạn nhân để chiếm đoạt tiền trong tài khoản.
Một số trường hợp khi truy cập được vào tài khoản của nạn nhân chúng sẽ tắt thông báo cảnh báo hoặc đổi ngôn ngữ của các tin nhắn cảnh báo, thông báo biến động số dư hòng che giấu việc truy cập trái phép và rút tiền trong tài khoản của nạn nhân.

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua cách thức kinh doanh đa cấp hoặc thông qua các sàn giao dịch ảo (sàn vàng, ngoại tệ, bất động sản, Forex, Wefinex, Deniex, Pocinex, Binaex, Remitex, Vista…).
– Xuất hiện nhiều doanh nghiệp hoạt động theo mô hình đa cấp có dấu hiệu chiếm đoạt tài sản dưới nhiều vỏ bọc khác nhau. Các doanh nghiệp này thường xây dựng đội ngũ duy trì hệ thống tại nhiều tỉnh, thành phố trên toàn quốc, thu hút hàng trăm nghìn người tham gia, gây tổn hại ước tính hàng nghìn tỷ đồng.
– Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua các sàn giao dịch ảo (sàn vàng, ngoại tệ, bất động sản, Forex, Wefinex, Deniex, Pocinex, Binaex, Remitex, Vista): Đối tượng sử dụng những thủ đoạn phạm tội rất tinh vi, phức tạp gồm đội ngũ môi giới tiếp thị để lôi kéo khách hàng (các nhà đầu tư) mở tài khoản giao dịch: Chúng tự lập sàn, website giả mạo sàn nước ngoài và điều chỉnh về kĩ thuật để chiếm đoạt tài sản.
– Với thủ đoạn mời, chào làm đại lý trên mạng, thời gian đầu nạn nhân có thể bán được hàng hoá (nhiều trường hợp thực chất là đối tượng cài người vào để mua hàng). Khi nạn nhân đã mắc bẫy, các đối tượng sẽ tiếp cận và đề nghị các nạn nhân nhập hàng với số lượng lớn để được hưởng chiết khấu cao. Với thủ đoạn trên, nhiều nạn nhân đã chi hàng tỷ đồng để nhập hàng về nhưng không bán được vì hàng hóa toàn là kém chất lượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ.
– Riêng đối với các sàn giao dịch ảo “đầu tư tài chính” như: Forex, Wefinex, Deniex, Pocinex, Binaex, Remitex, Vista… là dạng phi vật chất, nên khi hệ thống dữ liệu bị xoá thì toàn bộ tài sản mà người dân nạp tiền vào sẽ bị mất, gây tổn hại lớn.
– Mặt khác, các đối tượng còn câu dụ người dân tham gia đầu tư vào các sàn ngoại hối ảo để nhận tiền hoa hồng, sau đó thông báo cháy tài khoản hoặc sập sàn, chiếm đoạt tiền đầu tư từ các nạn nhân.
Đối với sàn giao dịch trực tuyến dưới hình thức tạo tài khoản chỉ là các “sàn giao dịch ngoại hối” tự xưng. Trong nhiều trường hợp, đó chỉ là vỏ bọc để che đậy hoạt động huy động tiền. Bản chất của hoạt động này là lấy tiền của người vào mạng lưới sau (nhà đầu tư sau) trả cho người vào mạng lưới trước. Khi không còn người đóng tiền vào hệ thống thì hệ thống sẽ sụp đổ. Biểu hiện của mô hình này là các tổ chức hứa hẹn trả hoa hồng, tiền thưởng cao bất thường so với số tiền bỏ ra ban đầu hoặc hứa hẹn với người tham gia chỉ cần đầu tư tiền vào các dự án, sau đó không làm gì nhưng vẫn hưởng được tiền hoa hồng, tiền thù lao và các lợi ích kinh tế khác.

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua hoạt động thương mại điện tử (mua bán hàng trên mạng).
Đối tượng sử dụng nhiều thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản khác nhau như:
+ Ký hợp đồng qua mạng, thực hiện giao dịch đúng hợp đồng trong một số lần để tạo lòng tin, nhưng sau khi đối tác đã chuyển một khoản tiền lớn, chúng nhanh chóng rút tiền để chiếm đoạt và không giao hàng như thoả thuận hoặc giao hàng giả, hàng kém chất lượng không như quảng cáo.
+ Quảng cáo, rao bán hàng hoá… qua các website, diễn đàn, mạng xã hội, email… yêu cầu khách hàng trả tiền trước nhưng không chuyển hàng hoặc chuyển hàng không đúng mẫu mã, số lượng, chủng loại hoặc hàng giả, kém chất lượng…

Lừa đảo thông qua cách thức tuyển dụng lao động, tuyển Cộng tác viên online.
Các đối tượng thông qua các kênh truyền thông, mạng xã hội để mời chào tuyển dụng lao động với các khẩu hiệu như: “Việc làm tại nhà đơn giản, mức lương hấp dẫn, trả lương theo ngày cao”.
– Khi nạn nhân liên hệ thì sẽ yêu cầu nạn nhận chuyển khoản cọc tiền hàng để gửi hàng về cho làm tại nhà. Tuy nhiên khi nạn nhân chuyển tiền các đối tượng sẽ chiếm đoạt.
– Nhiều trường hợp đối tượng mạo danh chuyên viên của các trang thương mại điện tử để lôi kéo nạn nhân trở thành CTV bán hàng online với hoa hồng hấp dẫn, yêu cầu CTV phải thanh toán tiền đơn hàng trước sau đó sẽ được Cty hoàn tiền gốc và nhận hoa hồng có chiết khấu rất cao từ 15% – 30% giá trị đơn hàng. Chúng sẽ hoàn trả tiền gốc và thanh toán hoa hồng cho CTV từ 1-3 đơn hàng có giá trị thấp hòng lấy long tin, đánh vào tâm lý hám lợi để dụ dỗ. Khi CTV chuyển khoản để mua các đơn hàng có giá trị cao thì chúng sẽ chiếm đoạt tiền.
– Mặt khác, các đối tượng còn gửi các đường link và yêu cầu nạn nhân truy cập, đăng nhập và điền các thông tin theo hướng dẫn của chúng. Sau khi nạn nhân điền, gửi tới trọn vẹn các thông tin có liên quan thì số đối tượng phạm tội sẽ chiếm đoạt quyền sử dụng tài khoản ngân hàng, tài khoản mạng xã hội để thực hiện các hành vi chiếm đoạt tài sản.

Lừa đảo thông qua cách thức cho vay tín chấp thủ tục rút gọn qua App (cho vay tiền qua các ứng dụng trên mạng xã hội).
– Thường là nhóm đối tượng có tổ chức, hoạt động chuyên nghiệp, có kiến thức về lĩnh vực tài chính, công nghệ. Chúng xây dựng các trang website, ứng dụng (app) lậu không qua kiểm duyệt để làm công cụ kết nối và khai thác thông tin của nạn nhân nhằm thực hiện hành vi lừa đảo.
– Các đối tượng thông qua các kênh truyền thông, mạng xã hội để mời chào với các khẩu hiệu như: “Cho vay tiền tín chấp thủ tục rút gọn, giải ngân nhanh, lãi suất ưu đãi…”.
– Khi có khách liên hệ vay tiền, đối tượng sẽ phân công đối tượng “Tư vấn viên, hỗ trợ viên” dẫn khách đến các trang website hoặc ứng dụng (app) cho vay của họ có các giao diện, nút chức năng, biểu giá vay và lãi suất… đã được xây dựng công phu, chuyên nghiệp hòng gây dựng niềm tin.
– Sau khi khách nhập các thông tin cá nhân, số điện thoại, số tài khoản ngân hàng và chọn gói vay theo nhu cầu, sẽ buộc khách phải chuyển khoản tiền lệ phí hồ sơ, tiền bảo hiểm khoản vay, tiền chứng minh khả năng chi trả.
– Tiếp đó, sẽ can thiệp vào hệ thống của website hoặc ứng dụng (app) cho vay để tạo ra các thông báo lỗi hệ thống hoặc đổ lỗi cho khách nhập sai thông tin (mặc dù khách điền đúng thông tin vẫn bị sửa thành sai) rồi yêu cầu khách nộp tiền để khắc phục lỗi hoặc để đảm bảo uy tín của khách rằng khách không lừa đảo họ. Các khoản tiền khách nộp để sửa lỗi sẽ được tích luỹ trên hệ thống webiste hoặc ứng dụng (app) cho vay, đối tượng cam kết sẽ hoàn lại toàn bộ số tiền khách đã nộp kèm theo khoản tiền khách cần vay ngay sau khi kết thúc giao dịch; ngược lại, nếu khách không giao dịch tiếp thì sẽ mất toàn bộ số tiền đã nộp trước đó.
– Với tâm lý tiếc tiền khi đã nộp vào thì nạn nhân sẽ liên tục nộp tiền vào cho đến khi biết mình bị lừa đảo thì mới dừng lại.
Mặt khác, có thể khẳng định đây là phương thức, thủ đoạn hoạt động mới của loại tội phạm tín dụng đen (cho vay nặng lãi). Khi người dân đăng ký vay tiền dạng này thì ngoài khả năng bị lừa đảo, người dân có thể bị rơi vào một số tình huống sau:
– Các rủi ro không lường trước vì bị lộ thông tin và hình ảnh cá nhân.
– Có thể bị gán vào các khoản vay mà bản thân không hề hay biết do đã gửi tới các loại giấy tờ tuỳ thân, sổ HKTT trước đó cho các đối tượng xấu.
– Trường hợp có thể vay được tiền, nhưng khi chậm thanh toán tiền lãi và gốc sẽ bị các đối tượng bôi nhọ danh dự và đe doạ tinh thần, quấy nhiễu bản thân và những người thân.

Lừa đảo thông qua cách thức đổi tiền ngoại tệ.
– Các đối tượng giả mạo hoặc tạo các tài khoản mạng xã hội, các webiste có vỏ bọc bắt mắt, uy tín, chuyên nghiệp chuyên làm dịch vụ đổi tiền ngoại tệ lấy phí.
– Chúng tìm kiếm nạn nhân là những người có nhu cầu đổi tiền ngoại tệ thường xuyên ở trong các hội, nhóm trên mạng xã hội Facebook, Zalo, Telgram… hoặc kết bạn, làm quen với những người thường xuyên có nhu cầu đổi tiền để nắm bắt.
– Khi thấy nạn nhân có nhu cầu đổi tiền ngoại tệ, chúng sẽ chủ động liên lạc đặt vấn đề đổi tiền lấy phí (thường chúng sẽ hạ mức phí thấp hơn thị trường để câu dụ nạn nhân). Chúng sẽ dùng nhiều thủ đoạn gian dối (thường xuyên khoe các chứng từ, giao dịch giả…) nhằm gây dựng niềm tin chiếm đoạt lòng tin của nạn nhân.
Sau khi kết nối, thống nhất số tiền đổi, số đối tượng phạm tội làm giả tin nhắn báo giao dịch tài khoản ngân hàng (qua hệ thống Internet Banking) và làm giả chứng từ chuyển tiền qua ngân hàng rồi gửi cho nạn nhân biết. Khi nhận được tin nhắn thông báo của đối tượng, nạn nhân không kiểm tra kỹ lại phát sinh giao dịch tiền trong tài khoản của mình mà vội vàng chuyển tiền cho đối tượng thì sẽ bị đối tượng chiếm đoạt.

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua tấn công hộp thư Email.
– Chủ yếu do các đối tượng người nước ngoài thực hiện như: Nigeria, Nam Phi… Chúng sử dụng các biện pháp kĩ thuật giả mạo, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển email của các doanh nghiệp, các nhân hệ kinh doanh, thanh toán tiền với các đối tác nước ngoài, thường tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các địa phương, không có bộ phận quản trị mạng chuyên trách, kiến thức bảo mật chưa cao để lừa đảo. Sau đó thay đổi các thông tin giao dịch chuyển tiền để chiếm đoạt thông qua các hợp đồng kinh tế, các tài khoản nhận tiền do các đối tượng chỉ định thường được mở tại các ngân hàng ngoài lãnh thổ Việt Nam dẫn tới khó khăn trong việc thu hồi tiền và tài sản bị chiếm đoạt.

Lừa đảo thông qua thủ đoạn tạo lập Fanpage kêu gọi từ thiện rồi chiếm đoạt tiền ủng hộ của các nhà hảo tâm.
Với thủ đoạn các đối tượng sử dụng: Lợi dụng lòng tin của người dân để lừa đảo tiền từ thiện qua mạng xã hội, chúng tạo lập các trang mạng xã hội (chủ yếu trên Facebook), sau đó đăng tải các nội dung trình bày, tạo dựng những nội dung không có thật về một số hoàn cảnh đang gặp khó khăn, hoạn nạn cần được giúp đỡ; hoặc giả mạo các trang mạng xã hội chuyên làm từ thiện được nhà nước cho phép, rồi đăng tải các nội dung trình bày kêu gọi cộng đồng mạng giúp đỡ. Tinh vi hơn, một số đối tượng còn sử dụng các bài báo viết về các hoàn cảnh khó khăn đã được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng để dẫn nguồn trên Fanpage Facebook, rồi xen cài số tài khoản ngân hàng tiếp nhận từ thiện do các đối tượng tự tạo lập quản lý, để tiếp nhận nguồn tiền ủng hộ.
Các nội dung trình bày được các đối tượng đăng tải trên các trang mạng xã hội đã thu hút hàng chục nghìn người quan tâm theo dõi, gửi tiền ủng hộ từ 50.000 đồng đến 5.000.000 đồng. Tuy nhiên, sau khi tiếp nhận số tiền được các nhà hảo tâm chuyển đến, các đối tượng không bàn giao tiền từ thiện cho các gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn mà sử dụng hết vào mục đích cá nhân; hoặc chỉ chuyển một phần rất nhỏ để làm hình ảnh nhằm tiếp tục “kêu gọi từ thiện”…
Từ đầu năm 2021 đến nay, lực lượng Công an trong cả nước đã liên tiếp phát hiện, xử lý các đối tượng quản trị các trang Fanpage Facebook hoạt động lừa đảo chiếm đoạt tài sản với thủ đoạn tương tự như trên. Điển hình Fanpage “Chia sẻ vì người nghèo”, “Hỗ trợ trẻ em”, “Quỹ bảo trợ trẻ em”, “Phật tại tâm”, “Chia sẻ yêu thương”, “Kết nối yêu thương”, “Quan thế âm bồ tát”…

Lừa đảo cách thức gửi thông báo trúng thưởng, yêu cầu nộp tiền phí nhận thưởng
Các đối tượng thường lập các website trúng thưởng, gửi tin nhắn qua phần mềm nhắn tin OTT như: Facebook, Zalo, Viber… thông báo cho chủ tài khoản đã trúng thưởng tài sản, hiện vật có giá trị lớn, đề nghị nộp tiền phí hoặc tiền thuế nhận thưởng.
Chúng thường yêu cầu nạn nhân nộp tiền thông qua mua mã thẻ điện thoại, thẻ game hoặc chuyển tiền sang các tài khoản trung gian sau đó chiếm đoạt.

Lừa đảo thông qua cách thức tư vấn, mua bán thông tin kèo cá độ, dự đoán kết quả lô đề trên mạng Internet.
– Các đối tượng tự nhận là các “chuyên gia” phân tích kết quả số lô, số đề, kèo các trận thể thao; sử dụng các trang mạng xã hội lập ra dịch vụ soi cầu, lấy số, bạch thủ lô đề rao bán với giá vài triệu đến vài chục triệu đồng.
– Mặt kháco bán số lô đề, các đối tượng còn rao bán các kèo cá độ bóng đá gồm có 3 mức: Mức thứ nhất là chính xác 90%; mức VIP là chính xác 95%; mức siêu VIP chính xác 99,9%.
Nhiều người nạn nhân đã không ngại chi hàng chục triệu đồng để mua những con số. Đa số các nạn nhân phần vì tâm lý xấu hổ, phần vì biết việc đánh lô đề, cá độ là vi phạm pháp luật nên không trình báo các đơn vị chức năng.

Lừa đảo thông qua cách thức mời nâng cấp sim 4G để chiếm đoạt sim, từ đó chiếm đoạt tài khoản ngân hang, ví điện tử.
– Các đối tượng mạo danh chuyên viên chăm sóc khách hàng, gợi ý và yêu cầu nạn nhân bấm dãy số: **21* số điện thoại* hoặc tin nhắn theo cú pháp DSxxxx để được đổi sim 4G với ưu đãi hấp dẫn
– Đó là cách chuyển cuộc gọi và đổi sim sang phôi trắng, nếu làm sẽ bị mất quyền kiểm soát sim điện thoại
– Đối tượng sử dụng số điện thoại chiếm đoạt được để thao tác chuyển tiền trong tài khoản, ví điện tử của nạn nhân.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com