Bản án về tội giết người, cướp tài sản - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Bản án về tội giết người, cướp tài sản

Bản án về tội giết người, cướp tài sản

Tội giết người, cướp tài sản là một trong những tội phạm xảy ra cực kỳ phổ biến. Bộ Luật Hình sự Việt Nam cũng đã có quy định cụ thể về hành vi, hình phạt cụ thể cho những tội phạm này. Vậy hãy cùng LVN Group nghiên cứu tội Bản án về tội giết người, cướp tài sản dưới đây. Mời các bạn bạn đọc cân nhắc.

Bản án về tội giết người, cướp tài sản

1. Bản án 319/2020/HSPT ngày 15/06/2020 về tội giết người, cướp tài sản

Ngày 15 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh C xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 63/2020/TLPT-HS ngày 07 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo Trần Hữu N do bị cáo và người uỷ quyền hợp pháp của người bị hại kháng cáo Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2019/HS-ST ngày 26/12/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh C.

Bị cáo có kháng cáo: Trần Hữu N (Tên gọi khác: Sơn L), sinh năm 1987 tại tỉnh C; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: ấp Kinh Hòn, xã Khánh Bình Tây, huyện T, tỉnh C; Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Con ông Trần Văn Đức và bà Võ Thị Lâu; Vợ 1: Ngô Hồng Nhi, có 01 con sinh năm 2009, vợ 2: Huỳnh Thị Thanh Bình, có 01 con sinh năm 2013; Tiền án: Bản án số 38/2006/HS-ST ngày 16/6/2006 của Tòa án nhân dân huyện T phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/01/2007, chấp hành xong phần dân sự ngày 27/8/2007; Tiền sự: Không; Nhân thân: Quyết định số 15/QĐ-UB ngày 08/4/2010 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B đưa vào cơ sở giáo dục thời hạn 24 tháng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, Bản án số 33/2015/HSST ngày 25/9/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh B phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/02/2016, Quyết định số 02/2019/QĐ-TA ngày 14/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh B áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 12 tháng; Bị bắt theo Lệnh truy nã từ ngày 11/4/2019 chuyển sang tạm giam từ ngày 20/4/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Ngô Ngọc Thành – Văn phòng luật sư Huỳnh Quốc thuộc Đoàn luật sư tỉnh C – Có mặt.

Người bị hại: Chị Trần Thị Ngọc H, sinh năm 1992 (chết).

Người uỷ quyền hợp pháp của người bị hại có kháng cáo: Anh Nguyễn Văn N1 (Nguyễn Thanh N1), sinh năm 1976 là chồng của bị hại; Địa chỉ: Ấp Kinh Hòn, xã Khánh Bình Tây, huyện T, tỉnh C – Vắng mặt.

Người uỷ quyền hợp pháp của người bị hại còn có ông Trần Văn C và bà Phạm Ngọc A là cha mẹ đẻ của người bị hại, không kháng cáo.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

– Cụ Nguyễn Thị T, sinh năm 1941 – Có mặt;

Địa chỉ: Ấp Thị Tường B, xã Hòa Mỹ, huyện C, tỉnh C.

– Bà Võ Thị L1, sinh năm 1958 – Có mặt;

Trú ấp Kinh Hòn, xã Khánh Bình Tây, huyện T, tỉnh C.

Nội dung bản án:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vợ chồng chị Trần Thị Ngọc H và anh Nguyễn Văn N1 mở cửa hàng ăn uống ở ấp Kinh Hòn, xã Khánh Bình Tây, huyện T, tỉnh C. Bị cáo Trần Hữu N ngụ cùng ấp và thường xuyên đến cửa hàng của chị H, anh N1 để ăn uống.

Khoảng 10 giờ ngày 30/8/2009, N đến cửa hàng uống cà phê. Khi này chỉ có chị H ở cửa hàng, còn anh N1 đi xem đá bóng ở Hòn Đá Bạc. Trong lúc uống cà phê, N thấy chị H lấy quần áo để đi tắm thì N nảy sinh ý định trộm tiền, nên đi đến kéo ngăn tủ đựng tiền ra định lấy tiền thì bị chị H đang đứng ở cửa nhà sau phát hiện la lên. N chạy đến dùng tay bịt miệng chị H thì bị chị H cắn vào tay và giằng co với N. N chụp khúc cây (cây dùng để đập nước đá) gần đó đánh nhiều cái vào đầu, vào người của chị H nhưng H vẫn không buông N ra. Khi này N bỏ khúc cây xuống và lấy con dao (loại dao mũi bằng, cán gỗ) ở gần đó chém vào đầu, mặt của chị H làm chị H ngã xuống đất. N bỏ con dao mũi bằng xuống rồi chụp lấy con dao nhọn (loại dao Thái Lan) ở gần đó đâm vào người chị H làm chị H bất tỉnh thì N lấy 02 dây chuyền, 01 lắc đeo tay, tổng trọng lượng 13 chỉ vàng 18K đang đeo trên người chị H rồi chạy ra ao ngoài vườn cách đó khoảng 20 mét để gột rửa vết máu dính trên người và quần áo. Sau đó N bỏ lại đôi dép, đi theo đường ruộng đến nhà anh Võ Văn S cách đó khoảng 02 km thuê anh S chạy đò chở N đến chợ Nhà Máy A, xã Khánh Hưng, huyện T. Khi đến chợ, N mượn đôi dép của anh S để mang và đi đến một tiệm vàng bán số trang sức đã lấy của chị H.

Khoảng 13 giờ cùng ngày, anh N1 về đến nhà thì thấy chị H chết nên tri hô và báo chính quyền.

Bán vàng xong, N trả tiền đò cho anh S 50.000 đồng rồi đến tiệm của chị Y mua và thay quần áo mới tại tiệm, bỏ quần áo cũ vào bọc ni lông mang theo rồi đến tiệm chị P mua đôi dép da mang vào, bỏ lại đôi dép đã mượn của anh S tại tiệm, sau đó đến tiệm chị T1 mua 01 nón kết, 01 dây nịt (thắt lưng) rồi thuê anh H1 chạy honda ôm chở đến bến phà Rạch Ráng, thuê xe ôm khác chở đến thị trấn Đầm Dơi, huyện Đầm Dơi rồi thuê xe ôm khác chở đến nhà cô vợ là bà Ngô Hồng T2 ở ấp 7, xã Tân Lộc, huyện T, tỉnh C để gặp vợ con N. Tại đây chị N2 (vợ N) thấy tay N trầy xước thì N nói đánh nhau với người khác tại Đá Bạc nên bị thương. N ở đây cho đến khoảng 03 giờ ngày 31/8/2009 thì N cho chị N2 100.000 đồng, nói là đi tìm việc làm và nhờ bà T2 thuê anh T3 chạy honda ôm chở N đến thị trấn Phước Long, huyện Phước Long, tỉnh B rồi đi tàu cao tốc đến Cần Thơ, sau đó đi tỉnh Bình Dương, tỉnh Thừa Thiên Huế rồi đến thành phố P, tỉnh B sống lang thang, thay tên đổi họ thành Sơn L, sống chung như vợ chồng với chị Huỳnh Thị Thanh Bình và có 01 con chung sinh năm 2013.

Ngày 11/4/2019, khi đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại cơ sở điều trị ma túy tỉnh B thì N bị bắt theo Lệnh truy nã.

Bản Kết luận giám định pháp y tử thi số 338/GĐPY/2009 ngày 31/8/2009 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh C thể hiện Trần Thị Ngọc H có các vết thương như sau:

1. Đầu:

+ Đỉnh đầu có 02 vết thương rách da, kích thước (4×2) cm và (7×2) cm, các vết thương có chung đặc điểm bờ mép sắc gọn, tụ máu ít, hả miệng.

+ Ở thái dương đỉnh (P) có 03 vết thương rách da, bờ mép sắc gọn, hả miệng có kích thước (3×1) cm, (5×2) cm, (7×2) cm. Các vết thương này tụ máu ít.

+ Ở thái dương đỉnh (T) có 05 vết thương rách da, bờ mép sắc gọn, hả miệng có kích thước (7×2) cm, (5×2) cm, (10×4) cm. Các vết thương này làm đứt đuôi tai (T) nơi đeo bông tai và (6×2) cm, (8×2) cm. Các vết thương này tụ máu ít.

+ Ở chẩm có 01 vết thương rách da (7×2) cm, bờ mép sắc gọn, vết thương hả miệng, tụ máu ít.

+ Ở gáy (T) hướng vào đốt sống cổ có 01 vết thương khá lớn, kích thước (12×5) cm. Vết thương làm đứt cơ Thang và cơ cạnh đốt sống cổ – không làm tổn thương đốt sống cổ.

2. Vùng mặt:

+ Ở trán (P) gần góc trong cung mày (P) có 01 vết thương rách da, kích thước (3×1) cm, bờ mép sắc gọn, tụ máu ít.

+ Ở thái dương (P) có 01 vết thương bầm tím và sưng to, kích thước (6×7) cm, hai mắt sưng bầm tím, kích thước (4×4) cm, (4×4) cm.

+ Ở gò má (P) có 01 vết thương rách da, kích thước (1×1) cm – tổn thương không sâu.

+ Ở gò má (T) có 01 vết thương rách da, kích thước (2×1,5) cm – tổn thương không sâu.

+ Ở môi (P) có 01 vết thương rách da, kích thước (1×0,5) cm, tụ máu ít – không làm gãy răng.

+ Ở cằm (P) có 01 vết thương rách da, vết thương làm lật da, kích thước (3×2) cm – không làm tổn thương xương hàm.

+ Ở cằm (T) có 01 vết thương rách da, lật da có hướng xuống dưới cổ, kích thước (7×3) cm – vết thương làm tổn thương lật mặt trên xương hàm dưới (T).

3. Cổ:

+ Ở cổ (P) có 01 vết trầy bầm tím tụ máu, kích thước (7×1) cm và có 03 dấu ở gần hàm (P) dạng vòng cung.

+ Ở trước cổ có 01 dấu trầy xước, dấu xước có hướng đi vuông góc với trục thẳng đứng của cổ, kích thước (8×2) cm.

+ Ở sát hỏm ức có 01 dấu trầy khá lớn và rõ, kích thước (10×3) cm bầm tím.

+ Ở khớp ức đòn (T) có 01 vết rách da có hình nhọn 2 đầu – đầu dưới hơi khuyết làm thành một đầu hơi tù, kích thước (3×1) cm – vết thương hả miệng.

4. Bụng: Không có dấu vết chấn thương.

5. Ở mỏm vai trước (T) có một vết thương rách da, kích thước (2×1) cm – vết thương không sâu.

Ở mỏm vai sau (T) có một vết thương rách da lộ cơ, kích thước (3×1) cm – vết thương không làm tổn thương sâu.

6. Ở cẳng tay (T): Tại 1/3 giữa sau có một vết thương rách da hả miệng làm đứt đuôi thẳng tay, kích thước (4×2) cm – vết thương không làm tổn thương xương.

Ở mu bàn tay (T) có một vết thương làm đứt gân gấp các ngón III-IV, kích thước (2×1) cm.

Ở ổ mô cái (T) có một vết thương đứt da cơ, kích thước (6×1) cm vết thương làm đứt xương ngón I tay (T).

Ở 1/3 trên trước cánh tay (P) có một vết trầy bầm tím, kích thước (10×1) cm.

7. Lưng: Ở khoảng đốt sống lưng VI-VII-VIII có nhiều dấu bầm tím khó xác định nhưng ở đốt sống lưng số VII-VIII có một vết bầm tím có đặc điểm có hình dạng gần như chữ nhật một cạnh, kích thước (3,5×10) cm – nhưng cạnh dài 10 cm chỉ nổi rõ 06 cm, còn 04 cm mờ không rõ.

Nguyên nhân chết: Chấn thương sọ não hở/Đa chấn thương.

Biên bản xác định giá số 03/KL-HĐĐG ngày 17/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh C kết luận: Giá vàng 18K-750 thời gian ngày 30/8/2009 trên địa bàn tỉnh C là 1.567.000 đồng/chỉ.

Vật chứng thu giữ gồm: Một ly thủy tinh và ống hút; Hai chiếc dép nhựa màu đen quai chéo; một đôi dép nam màu đen, quai ngang bằng da trên quai có 03 lỗ tròn thẳng hàng, đế nhựa; một lưỡi dao bằng kim loại màu trắng; một cán dao nhựa màu đen; một quyển tập học sinh; hai đoạn cây gỗ kích thước (13 x 3 x 3) cm và ( 31 x 3 x 3) cm; một chày gỗ (37 x 5 x 5) cm; một cây dao kích thước (22 x 8) cm có dính tóc; một ổ khóa bằng kim loại màu trắng và 04 chìa khóa; một mảnh nhựa màu đen kích thước (1,8 x 2,5) cm; một đoạn khung cửa gỗ nghi có dính đường vân tay; ba mãnh tol kim loại nghi có dính đường vân tay; một quần jean; một quần sọt jean; một quần sọt sọc đen – xanh – trắng; một áo sơ mi tay màu xám hơi đậm; một áo sơ mi trắng dài tay; một áo khoát; mẫu tóc và áo có dính máu.

Sau khi xảy ra vụ án, mẹ của bị cáo là bà Võ Thị L1 đã tự nguyện bồi thường cho gia đình người bị hại 40.000.000 đồng.

Kết luận giám định gen (ADN) số 2471/C09B ngày 28/6/2019 của Phân Viện khoa học hình sự Bộ công an tại Thành phố Hồ Chí Minh (bút lục 105) xác định Sơn L (nghi tên thật là Trần Hữu N) là con ruột của bà Võ Thị L1 và xác suất 99,99%.

Tại Bản cáo trạng số 30/CT-VKS-P1 ngày 21/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh C đã truy tố Trần Hữu N về tội “Giết người” và tội “Cướp tài sản” theo các điểm e, n khoản 1 Điều 123 và khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự;

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2019/HS-ST ngày 26/12/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh C đã quyết định:

Căn cứ điểm e, n khoản 1 Điều 123; khoản 1 Điều 168; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 53; điểm d khoản 1 Điều 55; Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 591 Bộ luật dân sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên bố bị cáo Trần Hữu N (Sơn L) phạm các tội “Giết người” và tội “Cướp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần Hữu N tử hình về tội “Giết người” và 05 (năm) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là Tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Mặt khác, Bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự; xử lý vật chứng; án phí; trách nhiệm do chậm thi hành án; nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo hướng dẫn của pháp luật.

Ngày 09/01/2020, bị cáo Trần Hữu N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 06/01/2020, anh Nguyễn Thanh N1 là người uỷ quyền hợp pháp của người bị hại có đơn xin giảm hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Trần Hữu N khai nhận cái chết của chị H là do bị cáo gây ra, nhưng đề nghị xem xét bị cáo chỉ dùng khúc cây và con dao mũi bằng làm chị H chết chứ bị cáo không có dùng dao mũi nhọn đâm như Cáo trạng nêu; Bị cáo và chị H giằng co nên vàng của chị H đứt văng ra thì bị cáo lấy một sợi dây chuyền chứ bị cáo không có lấy của chị H đến 02 sợi dây chuyền và 01 tấm lắc. Vì bị cáo làm chị H chết và vàng của chị H bị mất, nên gia đình bị cáo mới đồng ý bồi thường toàn bộ số vàng 13 chỉ. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội làm người có ích cho xã hội, nuôi mẹ già và các con còn nhỏ.

Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị xem xét bị cáo chỉ có ý định lấy trộm nhưng bị phát hiện nên bị cáo và chị H giằng co nhau, do chị H không buông bị cáo ra nên bị cáo dùng cây đánh, dùng dao chém chứ bị cáo không có ý định giết người từ trước. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tuy chỉ lấy 01 sợi dây chuyền nhưng bị cáo đã tác động gia đình bồi thường dân sự xong, cha mẹ bị cáo là người có công với nước, bà nội bị cáo là Bà mẹ Việt Nam anh hùng, người uỷ quyền hợp pháp của người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được sống, thể hiện sự nhân đạo của pháp luật.

Cụ Nguyễn Thị T yêu cầu bị cáo phải tiếp tục bồi thường tiền tổn thất tinh thần và không đồng ý giảm hình phạt cho bị cáo.

Bà Võ Thị L1 xác định bị cáo tác động cho bà bồi thường xong cho gia đình người bị hại, bà không đòi bị cáo trả tiền lại, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị xem xét đơn kháng cáo của bị cáo và đơn kháng cáo của người uỷ quyền hợp pháp của người bị hại đảm bảo cách thức, thời hạn, đủ điều kiện giải quyết phúc thẩm. Bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Giết người” và tội “Cướp tài sản” là có căn cứ, đã xử phạt bị cáo tử hình là tương xứng, nên đề nghị bác kháng cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Trần Hữu N đảm bảo cách thức, trong hạn luật định, đủ điều kiện giải quyết phúc thẩm.

“Đơn xin giảm án” đề ngày 06/01/2020 của anh Nguyễn Văn N1 (Nguyễn Thanh N1) là một trong những người uỷ quyền hợp pháp của người bị hại được nộp trong thời hạn, có nội dung xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên được xem là anh N1 có kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm, cần phải được xem xét giải quyết chung trong vụ án. Anh Nguyễn Văn N1 đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo hướng dẫn tại điểm b khoản 1 Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự;

Theo quy định tại Điều 331 Bộ luật tố tụng hình sự thì ông Nguyễn Văn N2 (cha chồng của người bị hại) và bà Võ Thị L1 (mẹ của bị cáo) không thuộc đối tượng được quyền kháng cáo phần trách nhiệm hình sự của Bản án sơ thẩm, nên không có cơ sở để cấp phúc thẩm xem xét “Đơn xin giảm án” đề ngày 30/12/2019 của bà Võ Thị L1 và “Đơn xin giảm án” đề ngày 06/01/2020 của ông Nguyễn Văn N2.

Khoản 1 Điều 123 và khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định mức hình phạt ngang bằng với khoản 1 Điều 93 và khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, nên Bản án sơ thẩm áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xét xử là phù hợp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi, kết luận giám định pháp y tử thi, kết luận giám định gen, biên bản thu giữ vật chứng, lời khai người làm chứng, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở để kết luận vào ngày 30/8/2009, bị cáo định trộm tài sản thì bị chị H phát hiện nên bị cáo đã dùng cây đánh vào đầu, dùng dao chém chị H chết rồi bị cáo lấy nữ trang đang đeo trên người chị H, sau đó bỏ trốn. Bị cáo giết người mà ngay sau đó lại thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng. Bản án sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Trần Hữu N phạm tội“Cướp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 168 và tội “Giết người” quy định tại điểm e khoản 1 Điều 123 và Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.

Bị cáo giết người không phải do vô cớ hay là để giải quyết mâu thuẫn nhỏ nhặt, nên Bản án sơ thẩm xác định bị cáo phạm tội có tính chất côn đồ quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là không đúng. Tuy không có kháng cáo, kháng nghị phần này nhưng vì có lợi cho bị cáo nên theo hướng dẫn tại Điều 345 Bộ luật tố tụng hình sự thì Hội đồng xét xử vẫn phải xem xét.

Bị cáo thừa nhận cái chết của chị H là do bị cáo dùng cây đánh và dùng dao mũi bằng chém. Trong nhiều lời khai (bút lục 420 – 439) bị cáo thừa nhận sau khi bỏ con dao mũi bằng xuống thì bị cáo cầm lấy con dao mũi nhọn, tại hiện trường cũng có một lưỡi dao nhọn bị gãy cán (Bút lục 42) và biên bản nhận dạng bị cáo cũng xác định đúng loại dao nhọn (Bút lục 400), thương tích của chị H cũng thể hiện có vết thương phù hợp với hung khí là vật sắc nhọn nhưng vết thương này không phải là nguyên nhân dẫn đến cái chết của nạn nhân, kết luận giám định pháp y xác định nguyên nhân cái chết của chị H là do chấn thương sọ não hở/Đa chấn thương. Mặc khác, tuy bị cáo xác định chỉ lấy của chị H 01 dây chuyền 03 chỉ vàng chứ không lấy toàn bộ số vàng gồm 02 dây chuyền và 01 tấm lắc tổng trọng lượng 13 chỉ vàng, nhưng khi phát hiện chị H chết thì 02 dây chuyền và 01 tấm lắc chị H đeo trên người đã không còn và lời khai của người làm chứng là người chạy honda ôm chở bị cáo (bút lục 214, 215 ngày 03/9/2009) đã trực tiếp nhìn thấy bị cáo có nhiều bó tiền, tổng cộng khoảng 14 – 15 triệu đồng là phù hợp với giá trị số vàng 13 chỉ. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo yêu cầu xem xét về hung khí gây án và số tài sản bị cáo đã lấy của chị H.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng con người, xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác, ngoài nhiều vết bầm tím thì có đến 27 vết thương trên cơ thể chị Huyền, chứng tỏ sự đau đớn tột cùng về tinh thần và thể xác của nạn nhân, gây đau thương tang tóc cho gia đình người bị hại, làm ảnh hưởng rất xấu đến an ninh trật tự an toàn xã hội ở địa phương nên phải xử phạt nghiêm. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là: Tự nguyện tác động gia đình bồi thường tổn hại; đã khai báo hành vi phạm tội, cha mẹ của bị cáo là người có công với nước. Tuy được loại trừ tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự và sau khi xét xử sơ thẩm gia đình bị cáo đã thỏa thuận thực hiện việc bồi thường cho gia đình người bị hại, nhưng xét thấy bị cáo có quá trình nhân thân rất xấu, đã có tiền án chưa được xóa án tích lại phạm tội nên thuộc trường hợp tái phạm, sau khi phạm tội bị cáo bỏ trốn khỏi địa phương, thay đổi họ tên, dân tộc để trốn tránh, trong quá trình trốn tránh gần 20 năm bị cáo cũng không ăn năn hối cải, không chịu sửa chữa bản thân để trở thành người lương thiện mà lại tiếp tục phạm tội và trở thành đối tượng nghiện ngập bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, nên bị cáo đã không còn khả năng cải tạo, giáo dục được nữa, cần phải loại trừ vĩnh viễn ra khỏi đời sống xã hội mới đảm bảo tác dụng răn đe, phòng ngừa chung. Do vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, lời bào chữa của luật sư và kháng cáo của người uỷ quyền hợp pháp của người bị hại, giữ nguyên Bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo theo đề nghị của uỷ quyền Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Người bị hại bị xâm phạm về tính mạng nên việc người uỷ quyền hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ cho bị cáo không được xem là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Cấp sơ thẩm đã có cân nhắc bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nhưng lại áp dụng khoản 1 Điều 53 Bộ luật hình sự mà không áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là không chính xác, nên điều chỉnh lại cho phù hợp;

Mặt khác, cơ thể chị H có đến 27 vết thương và nhiều vết bầm tím, chứng tỏ bị cáo cố tình phạm tội đến cùng, nhưng cấp sơ thẩm lại không áp dụng điểm e khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là thiếu sót, nhưng do không có kháng cáo kháng nghị phần này nên không có căn cứ để cấp phúc thẩm bổ sung, mà kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao xem xét.

[4] Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự; về xử lý vật chứng; về án phí sơ thẩm; về trách nhiệm do chậm thi hành án; nghĩa vụ thi hành án không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự;

2. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và không chấp nhận kháng cáo của người uỷ quyền hợp pháp của người bị hại. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2019/HSST ngày 26/12/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh C về phần hình phạt như sau:

Áp dụng điểm e khoản 1 Điều 123; khoản 1 Điều 168; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55; Điều 40 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Trần Hữu N (Tên gọi khác: Sơn L) phạm tội “Giết người” và tội “Cướp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần Hữu N (Tên gọi khác: Sơn L) tử hình về tội “Giết người”; 05 (năm) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là tử hình. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 11/4/2019.

Trong thời hạn 07 (bảy) ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo Trần Hữu N (Tên gọi khác: Sơn L) được gửi đơn xin ân giảm đến Chủ tịch nước.

3. Bị cáo phải nộp án phí hình sự phúc thẩm 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng).

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự; về xử lý vật chứng; về án phí sơ thẩm; về trách nhiệm do chậm thi hành án; nghĩa vụ thi hành án không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

2. Bản án về tội giết người và cướp tài sản số 228/2021/HS-PT

Ngày 16 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 117/2021/TLPT-HS ngày 18 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Phước Ch do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 50/2020/HS-ST ngày 15 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.

Bị cáo có kháng cáo:

– Họ và tên: Nguyễn Phước Ch, sinh ngày 1976; nơi sinh: Tiền Giang; nơi ĐKNKTT và cư trú: Ấp V, xã T, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 2/12; nghề nghiệp: Làm thuê; con ông: Nguyễn Văn X (chết tháng 3/2020); con bà: Trần Thị Bạch T, sinh năm 1937; vợ: Đinh Thị H, sinh năm 1976 (đã ly hôn); con: Bị cáo có 2 người con, con lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2005; tiền án: Không; tiền sự: Không.

Bị bắt giam ngày 28/11/2019, hiện đang tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Ch: Luật sư Phan Công Qu– Văn phòng Luật sư Phan Công Quyền, Đoàn Luật sư tỉnh Lâm Đồng; địa chỉ: 53 đường P, phường 3, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo cáo trạng của Viện kiểm sát và nội dung bản án hình sự sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Phước Ch, sinh sống tại tỉnh Tiền Giang, vào tháng 8 năm 2018 bị cáo Ch lên Lâm Đồng, làm vườn cà phê cho gia đình anh Trọng tại thôn 6 xã Tân Lâm, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Bị cáo Ch làm được khoảng 01 tháng, thì về lại Tiền Giang. Đến tháng 8 năm 2019, bị cáo Ch lên ở trọ tại 1/6/9, Tuệ Tĩnh, phường Lộc Sơn, Tp. Bảo Lộc để đi làm thuê. Do trước đó vào đầu năm 2019 thông qua mạng xã hội Zalo, bị cáo Ch làm quen và phát sinh tình cảm với chị Đoàn Thị Huỳnh Gi, sinh năm 1977, trú tại thôn 8, xã Đạm B’ri, Tp. Bảo Lộc nên khoảng 7 giờ ngày 12/10/2019 chị Gi đi xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 49K1-300.71 đến phòng trọ của bị cáo Ch rồi cùng Ch đi đến khu vực vườn cà phê của gia đình anh Nguyễn Tuấn Sơn, ở thôn 6, xã Tân Lâm, huyện Di Linh, thì dừng lại ngồi nói chuyện với nhau. Tại đây, bị cáo Ch dùng dao mũi nhọn đâm 02 nhát trúng vào vùng lưng của Gi, bị đâm chị Gi chạy vào vườn cà phê, bị cáo Ch đuổi theo tiếp tục dùng dao đâm nhiều nhát vào vùng ngực, bụng của chị Gi; khi thấy chị Gi đã chết; bị cáo Ch tháo lấy sợi dây chuyền màu vàng, 02 nhẫn kim loại màu vàng, đôi bông tai màu vàng trên người chị Gi, lấy điện thoại hiệu Oppo của chị Gi đi ra mở yên xe bỏ dao và điện thoại vào cốp xe rồi điều khiển xe bỏ đi. Khi đến xã Hòa Ninh, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng, bị cáo Ch vào tiệm vàng Ngọc Phú Tường do chị Ngô Thị Thanh Th làm chủ bán dây chuyền, nhẫn và bông tai chiếm đoạt của chị Gi được số tiền 7.500.000đ; đến thôn 3, xã Lộc An, huyện Bảo Lâm, bị cáo Ch bán xe máy của chị Gi cho anh Vũ Xuân H lấy số tiền 8.000.000đ rồi về lại phòng trọ trả cho chủ nhà là bà Trần Thị Huệ số tiền 150.000đ đền tấm kính phòng trọ mà Ch đã làm vỡ trước đó. Sau đó, bị cáo Ch đón xe về Tiền Giang, mua một xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 63B6- 383.78 làm phương tiện đi lại. Đến ngày 28/11/2019, thì Ch bị bắt giữ (BL: 95-124; 125-139).

Vật chứng thu giữ gồm: 01 mũ bảo hiểm, 01 áo mưa rằn ri, 01 áo khoác màu đỏ, 01 áo thun màu đen dài tay, 01 túi đeo có dây màu đen, 01 quần Jean màu xanh, 01 chiếc giầy trái hiệu Gucci, 01 kính thời trang màu nâu đen, 02 lọ dung dịch một màu trắng, một màu đỏ (BL 29-30); 01 xe mô tô hiệu Wave biển kiểm soát 63B6-383.78 (BL 60). Đối với chiếc điện thoại, đơn vị điều tra đã đưa Lê Phước Ch đến vị trí vứt bỏ để tìm kiếm thu hồi nhưng không có kết quả (BL 79); chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, Biển kiểm soát 49K1-300.71 sau khi mua lại của bị cáo Ch, anh Vũ Xuân H đã bán lại cho anh Nguyễn Duy H1, trú tại thôn An Hiệp, xã Liên Hiệp, huyện Đức Trọng và anh H1 bán lại cho người khác nhưng không ghi nhận thông tin cá nhân của người này nên không thu hồi được, vì vậy Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Lâm Đồng không định giá được đối với chiếc xe trên.

Theo bản kết luận pháp y số: 3.341/2019/AND ngày 29/11/2019 của Trung tâm pháp y thành phố Hồ Chí Minh. Kết luận: Mẫu xương và Đoàn Thị Lệ Nguyên (chị gái của Đoàn Thị Huỳnh Gi) có cùng người cha sinh học.

Theo bản kết luận pháp y số: 370/2019/TT ngày 14/6/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Lâm Đồng. Kết luận: Nguyên nhân chết:

– Khi giám định không còn phần mềm nên không đánh giá được có tổn thương được không về phần mềm.

– Bộ hài cốt không còn trọn vẹn, mất một số xương và không còn nguyên vẹn nghĩ đến có sự tác động của súc vật.

– Xương sườn số 7 cung trước bên trái bị gãy.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 50/2020/HSST ngày 15-12-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phước Ch phạm tội “Giết người” và tội “Cướp tài sản”.

Áp dụng điểm e khoản 1 Điều 123; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 40 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Phước Ch Tử hình về tội “Giết người”.

Áp dụng khoản 1 Điều 168 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Phước Ch 07 (bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản”.

Áp dụng Điều 55 của Bộ luật hình sự, buộc bị cáo Nguyễn Phước Ch phải chấp hành hình phạt chung cho cho cả hai tội là Tử hình.

Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo hướng dẫn của pháp luật.

Ngày 23 tháng 12 năm 2020, bị cáo Nguyễn Phước Ch có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo: Đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo giảm xuống hình phạt tù chung thân thể hiện tính khoan hồng của pháp luật. Có căn cứ xem xét cho bị cáo, trình độ nhận thức pháp luật còn hạn chế, nhân thân tốt, bị cáo thành khẩn khai báo, thừa nhận hành vi của mình. Kết luận điều tra có thể hiện bị hại có dùng gạch đá đánh bị cáo. Bị cáo thấy có dao mới dùng dao tấn công bị hại, bị cáo không hề có ý định trước.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 50/2020/HSST ngày 15-12-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét trọn vẹn, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về cách thức đơn kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định nên chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

Bị cáo Nguyễn Phước Ch bị tòa án cấp sơ thẩm xử phạt tử hình về tội “Giết người” theo điểm e khoản 1 Điều 123 và 07 (bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản” theo khoản 1 Điều 168 của Bộ luật hình sự 2015. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

[1] Nội dung: Tại phiên Tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm được tóm tắt nêu trên.
[2] Nhận định của Hội đồng xét xử: vào năm 2019 thông qua mạng xã hội Hotline, bị cáo Ch làm quen và phát sinh tình cảm với chị Đoàn Thị Huỳnh Gi. Khoảng 7 giờ ngày 12/10/2019, chị Gi đi xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 49k1-30071 đến phòng trọ của bị cáo Ch rồi cùng Ch đi đến khu vực vườn cà phê của gia đình anh Nguyễn Tuấn S ở thôn 6 xã Tân Lâm, huyện Di Linh, thì dừng lại ngồi nói chuyện với nhau. Tại đây, bị cáo Ch đã dùng dao đâm nhiều nhát vào vùng lưng, bụng và ngực của chị Gi. Khi thấy chị Gi đã chết, bị cáo Ch tháo lấy sợi dây chuyền màu vàng, hai nhẫn kim loại màu vàng và đôi bông tay màu vàng trên người chị Gi. Lấy điện thoại hiệu Oppo của chị Gi đi ra mở yên xe bỏ dao và điện thoại vào cốp xe rồi điều khiển xe bỏ đi. Khi đến xã Hòa Ninh, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng bán dây chuyền, nhẫn, bông tai chiếm đoạt của chị Gi 7.500.000 đồng, đến thôn 3 xã Lộc An, huyện Bảo Lâm bán xe máy lấy số tiền 8.000.000 đồng. Sau đó, bị cáo Ch đón xe về Tiền Giang. Đến ngày 28/11/2019 thì bị bắt giữ.
[2.1] Xét tính chất của vụ án là đặc biệt nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội. Hành vi của bị cáo thể hiện sự xem thường pháp luật, xem thường tính mạng của con người và xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác. Sau khi giết chết chị Gi bị cáo lại thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, nên cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo tội “Giết người” và tội “Cướp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 123 và khoản 1 Điều 168 của Bộ luật hình sự 2015 là có căn cứ đúng người, đúng pháp luật, không làm oan bị cáo.
[2.2] Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy: hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, bị cáo với bị hại không có mâu thuẫn và có mối quan hệ tình cảm với nhau. Trong lúc đang ngồi tâm sự cùng bị hại, bị cáo đã dùng dao đâm nhiều nhát vào người cho đến khi bị hại chết. Điều đó được chứng minh qua tang vật thu giữ là quần áo của bị hại thể hiện 14 vết thủng trên áo. Hành vi của bị cáo thể hiện sự vô cảm, máu lạnh, không còn tính người, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội, gây đau thương cho gia đình người bị hại. Xét thấy hành vi của bị cáo không còn khả năng cải tạo nên việc loại bỏ vĩnh viễn ra khỏi đời sống xã hội là cần thiết và cũng nhằm thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời, nhằm góp phần răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Do đó, cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo.
[3] Tại phiên tòa ngày hôm nay vị uỷ quyền Viện kiểm sát cấp cao đề nghị giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 50/2020/HS-ST ngày 15/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng phù hợp với nhận định trên của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Phước Ch Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 50/2020/HS-ST ngày 15/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phước Ch phạm tội “Giết người” và tội “Cướp tài sản”.

– Áp dụng điểm e khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 40 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt Nguyễn Phước Ch: Tử hình về tội giết người.

– Áp dụng khoản 1 Điều 168 của Bộ luật hình sự 2015;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Phước Ch 07 (bảy) năm tù về tội cướp tài sản.

Áp dụng Điều 55 của Bộ luật hình sự buộc bị cáo Nguyễn Phước Ch phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là Tử hình.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Phước Ch phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo được quyền gửi đơn lên Chủ tịch nước để xin ân giảm án tử hình.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

3. Bản án 171/2020/HSPT ngày 13/07/2020 về tội giết người và cướp tài sản

Vào ngày 13 tháng 7 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 191/2020/TLPT-HS ngày 15 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Giết người” và “Cướp tài sản”. Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn L và kháng cáo của người bị hại bà Ngô Thị P đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2020/HS-ST ngày 08/05/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1090/2020/QĐXXPT-HS ngày 26/6/2020.

– Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Văn L, sinh ngày 02/02/1994 tại Nghệ An; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 03/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Cha là Nguyễn Dũng S và mẹ là Đàm Thị T; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt giam ngày 07/10/2019. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

– Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn L:

Bà Lê Thị Hồng T – Luật sư – Văn phòng Luật sư Lê Thị Hồng T thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng. Địa chỉ: thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt, có đơn xin hoãn phiên tòa.

– Bị hại có kháng cáo:

Bà Ngô Thị P, sinh 1949; Nơi cư trú: thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền tiêu xài nên Nguyễn Văn L nảy sinh ý định cướp tài sản. Tối ngày 06/10/2019, khi L đi ăn tối ở đường N, TP Đà Nẵng và đi ngang qua cửa hàng cắt tóc ở địa chỉ 394 N, TP Đà Nẵng thấy chỉ có một mình chị Nguyễn Thị Thu T nên L nghĩ cướp tài sản ở đây sẽ dễ thực hiện hơn. Sáng ngày 07/10/2019 L đi bộ đến khu chợ cách cửa hàng cắt tóc khoảng 01 km để mua một con dao Thái Lan cán nhựa màu vàng cất giấu vào trong túi xách bằng vải. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày L đi đến cửa hàng cắt tóc, khi vào cửa hàng L hỏi chị T “Chơi bao nhiêu” (tức mua dâm một lần bao nhiêu tiền), chị T trả lời “Hai trăm” (tức hai trăm ngàn cho một lần chị T bán dâm), L đồng ý rồi cùng chị T đi vào phòng ngủ phía sau cửa hàng cắt tóc. Khi vào phòng chị T nói L “Cho em xin tiền” thì L lấy ra tờ 500.000đ đưa cho chị T. Do không có tiền thối nên chị T gọi bà Ngô Thị P đến nhờ đổi tiền, chị T đưa tiền cho bà P qua cửa sổ và đóng cửa lại. Sau đó, L tự cởi hết quần áo ra và đặt túi xách có dao bên trong ở vách tường phòng vệ sinh gần giường, chị T cũng tự cởi hết quần áo rồi quan hệ tình dục bằng miệng, chị T mang bao cao su cho L, lúc này L muốn tìm lý do tiếp cận túi xách để lấy dao ra thực hiện hành vi cướp nên L nói chị T “kích dục tiếp” thì sẽ cho chị T 500.000đ nữa, chị T đồng ý. L đi đến nơi đặt túi xách, dùng tay trái lấy tờ 500.000đ, tay phải lấy con dao Thái Lan, L dùng tay trái đưa tờ tiền về hướng chị T, khi chị T định đưa tay lấy tiền thì bất ngờ L lao đến dùng tay cầm tiền nắm tóc chị T, tay phải cầm dao kề vào cổ chị T rồi đe dọa “đưa tiền đây”, chị T hoảng sợ nên la lớn kêu cứu và dùng hai tay chộp giữ con dao, L rút dao ra để tiếp tục đe dọa thì gây ra thương tích ở hai bàn tay chị T. Khi này bà P đang chăm sóc vườn rau ở sau nhà nghe tiếng kêu cứu của chị T thì cầm theo một thanh kim loại (dùng để làm vườn) chạy đến gõ cửa phòng. Bên trong phòng ngủ, L đe dọa chị T “nếu còn la tao giết” và bảo chị T nói bà P ở ngoài không được báo Công an. L muốn khống chế bà P để tránh sự phát hiện của người dân xung quanh nên bảo chị T mở cửa. L vừa giữ chị T để khống chế vừa để chị T mở cửa phòng. Khi vừa mở cửa ra bà P dùng 01 thanh kim loại đánh liên tiếp vào đầu L để giải cứu cho chị T, L cầm dao tay phải đâm liên tiếp nhiều nhát vào ngực – bụng của bà P làm bà P gục và khụy người dựa vào tường. Sau đó L đe dọa chị T “đưa tiền và điện thoại đây” đồng thời kéo chị T vào trong phòng để người dân xung quanh không phát hiện nhưng chị T chống cự lại. Khi này bà P gượng dậy để bỏ chạy, L thấy vậy hoảng sợ nên buông chị T ra và tiếp tục giữ bà P lại giằng co. Chị T bỏ chạy ra phía sau leo qua tường rào rồi chạy vào nhà dân bên cạnh để trốn. L sợ bị phát hiện nên buông bà P ra và nhặt tờ tiền 500.000đ rơi dưới nền nhà (tờ tiền L đưa cho chị T trước đó), L chạy vào phòng mặc lại quần áo lấy ví tiền của L trong túi xách (bỏ lại túi xách trong phòng) và cầm dao chạy ra phía sau leo rào bỏ trốn. L chạy đến 01 ngôi miếu hoang rồi đến vòi nước rửa tờ tiền 500.000đ dính máu và rửa các vết máu dính trên người, quần áo. Khi này Công an phường nhận được tin báo đến bắt được Nguyễn Văn L, thu được hung khí gây án rồi đưa về trụ sở công tác. Do được đưa đi cấp cứu kịp thời nên hậu quả: Bà Ngô Thị P không chết.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 368/TgT ngày 02/12/2019 của Trung tâm giám định pháp y thành phố Đà Nẵng, kết luận thương tích đối với bà Ngô Thị P như sau:

– Vết thương thành ngực trái: Thấu ngực, thủng màng tim, xây xước tim, tổn thương nhu mô phổi trái, tràn máu khoang màng phổi trái;

– Vết thương thấu bụng: Thủng đại tràng ngang một lỗ;

– Đa vết thương ở cẳng tay, bàn tay trái: Đứt gân duỗi dài ngón I, đứt nhánh thần kinh trụ và nhánh động mạch trụ;

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 70%;

Ngoài tổn thương ở vùng đầu (nạn nhân do bị té ngã gây ra), các tổn thương còn lại phù hợp với vật sắc, nhọn gây ra.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 345/TgT ngày 30/10/2019 của Trung tâm pháp y thành phố Đà Nẵng kết luận thương tích của chị Nguyễn Thị Thu T như sau:

– Tổn thương bàn tay phải; mặt trước gối phải có vết rách da;

– Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 09%.

– Vật gây thương tích: Các tổn thương nêu trên là phù hợp với vật sắc gây ra.

Tại bản kết luận giám định số 1102/C09C (Đ5) ngày 20/11/2019 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng, kết luận:

– Trên con dao Thái Lan, trên bao cao su có dính máu của Nguyễn Thị Thu T và Ngô Thị P;

– Trên thanh kim loại và trên áo thun ngắn tay màu đỏ có dính máu của Nguyễn Thị Thu T;

– Trên quần vải màu đỏ không dính máu người;

– Trên bao cao su không có xác tinh trùng người;

– Trên bao cao su có AND của Nguyễn Văn L;

Tang vật thu giữ:

– 01 con dao Thái Lan dài 21 cm, cán dao làm bằng nhựa màu vàng dài 10,5cm, lưỡi dao làm bằng kim loại màu trắng sáng dài 10,5cm (lưỡi dao và mũi dao bị cong);

– 01 thanh kim loại màu giả gỗ dài 31,5cm;

– 01 vỏ và 01 bao cao su đã qua sử dụng;

– 01 áo thun ngắn tay màu đỏ, mặt trước áo có dòng chữ “World Without Strangens”;

– 01 quần vải ngắn (quần lửng) màu đỏ, trên túi sau bên phải có dòng chữ “Fashion”;

– 01 túi xách bằng vải màu xanh;

– 01 mũ cối màu xanh;

– 01 đôi giày vải màu xám;

– 01 đôi dép màu đen;

– 01 áo vải ngắn tay caro sọc xanh đen;

– 01 quần Jean lửng màu xám;

– 01 quần lót màu xanh;

– 01 CMND mang tên Nguyễn Văn L;

– Số tiền 1.560.000đ (Một triệu năm trăm sáu mươi ngàn đồng).

Ngày 07/11/2019 chị Nguyễn Thị Thu T có đơn không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.

Về dân sự:

Quá trình điều tra, gia đình bị cáo Nguyễn Văn L (ông Nguyễn Dũng S là cha ruột của bị cáo) đã thay mặt bị cáo L tự nguyện bồi thường cho bà Ngô Thị P số tiền 102.000.000đ. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, tiếp tục bồi thường 50.000.000đ. Tổng cộng là 152.000.000đ. Đại diện theo ủy quyền của bà P không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Chị Nguyễn Thị Thu T không yêu cầu bồi thường.

Tại Bản cáo trạng số 07/CT-VKS-P1 ngày 15/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Giết người” và “Cướp tài sản” theo điểm e, n khoản 1 Điều 123 và điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2020/HS-ST ngày 08/5/2020, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

1. Tuyên bố Bị cáo Nguyễn Văn L phạm các tội “Giết người” và “Cướp tài sản”.

2. Căn cứ: Điểm e, n khoản 1 Điều 123; điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm i khoản 1 Điều 52; Điều 55; Điều 57 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Văn L 16 (Mười sáu) năm tù về tội “Giết người” và 7 (Bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của cả 02 tội buộc bị cáo phải chấp hành là 23 (Hai mươi ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 07/10/2019.

Mặt khác, bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo theo hướng dẫn của pháp luật.

Ngày 16/5/2020, bị cáo Nguyễn Văn L có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 18/5/2020, bị hại bà Ngô Thị P có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, uỷ quyền Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và kháng cáo của bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo Nguyễn Văn L đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt, vì cấp sơ thẩm xử bị cáo quá nặng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, xem xét ý kiến của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Về trường hợp bị cáo từ chối Luật sư bào chữa và việc người bị hại kháng cáo vắng mặt.

Trong vụ án này, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp phải có người bào chữa, Tòa án đã chỉ định Luật sư Lê Thị Hồng Thanh tham gia bào chữa cho bị cáo từ giai đoạn sơ thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, luật sư Lê Thị Hồng Thanh vắng, có đơn xin hoãn phiên tòa do tham gia bào chữa một vụ án ở Tòa án cấp sơ thẩm, tuy nhiên bị cáo Nguyễn Văn L đã từ chối việc tham gia bào chữa của Luật sư (có văn bản kèm theo lưu hồ sơ), tự mình thực hiện việc bào chữa và đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 77 Bộ luật tố tụng hình sự như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm.

Người bị hại bà Ngô Thị P có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt cho bị cáo vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay. Xét thấy, việc vắng mặt của bị hại Ngô Thị P không ảnh hưởng việc xét xử và không làm xấu đi tình trạng của bị cáo nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo hướng dẫn tại Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như Tòa án cấp sơ thẩm xét xử là đúng, chỉ yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt cho bị cáo. Bà Ngô Thị P bị hại có đơn kháng cáo yêu cầu xin giảm hình phạt cho bị cáo.
[3] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn L trong quá trình điều tra và tại phiên tòa; Lời khai của người bị hại, những người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 10 giờ ngày 07/10/2019 Nguyễn Văn L mang theo dao Thái Lan đến cửa hàng cắt tóc của chị Nguyễn Thị Thu T ở 394 N, thành phố Đà Nẵng nhằm mục đích cướp tài sản. Tại đây, L giả vờ mua bán dâm với chị Nguyễn Thị Thu T rồi dùng dao khống chế chị T buộc chị T phải đưa tiền và điện thoại. Chị T đã phản kháng chụp giữ dao của bị cáo và kêu cứu, bà Ngô Thị P nghe tiếng kêu cứu của chị T nên chạy vào dùng gậy đánh L để giải cứu cho chị T thì L dùng dao đâm bà P nhiều nhát vào ngực, bụng và vào tay. Hậu quả chị T bị thương ở tay, tỉ lệ thương tích 09%; bà P bị vết thương thấu ngực, thủng màng tim, xây xước tim, tổn thương nhu mô phổi trái, tràn máu khoang màng phổi trái. Do được đưa đi cấp cứu kịp thời nên bà P không chết, bị thương tích với tỷ lệ 70%.

Với hành vi phạm tội đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Văn L về các tội “Giết người” và “Cướp tài sản” theo điểm e, n khoản 1 Điều 123; điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn L và của người bị hại Ngô Thị P, thấy rằng: Vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, chỉ vì muốn có tiền tiêu xài mà bị cáo Nguyễn Văn L đã dùng dao là hung khí nguy hiểm khống chế, uy hiếp chị Nguyễn Thị Thu T để cướp tài sản, đồng thời nguy hiểm hơn là khi bà Ngô Thị P đến giải cứu cho chị T thì L đã dùng dao đâm nhiều nhát vào vùng ngực – bụng, là những điểm trọng yếu trên cơ thể của bà P, việc người bị hại bà Ngô Thị P không chết, là do được cấp cứu kịp thời, nằm ngoài ý muốn của bị cáo. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm, thực hiện hành vi một cách quyết liệt, có tính chất côn đồ, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, tính mạng, sức khỏe của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội. Cùng lúc bị cáo phạm vào cả 02 tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Bị cáo phạm tội Giết người thuộc trường hợp “có tính chất côn đồ” và “giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Đối với tội cướp, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác”. Mặt khác bị cáo còn phạm tội thuộc trường hợp phạm tội đối với người đủ 70 tuổi trở lên theo điểm i khoản 1 Điều 52 BLHS. Khi xét xử sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ, như: trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn L có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; sau khi phạm tội đã tác động gia đình bồi thường cho người bị hại Ngô Thị P số tiền 152.000.000 đồng; Người bị hại (bà P) không chết và bị cáo cũng chưa chiếm đoạt được tài sản của người bị hại Nguyễn Thị Thu T nên bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “phạm tội chưa đạt”. Những người bị hại Nguyễn Thị Thu T và Ngô Thị P đều có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đồng thời bị cáo có ông bà nội, ngoại có công với Cách mạng, được tặng thưởng nhiều Huân, huy chương kháng chiến. Đó là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng trọn vẹn cho bị cáo. Trong giai đoạn phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt.

Từ những vấn đề phân tích, lập luận trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử vụ án đúng pháp luật, kháng cáo của bị cáo và của người bị hại không có cơ sở nên không được chấp nhận. Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của Viện kiểm sát, bác toàn bộ kháng cáo của bị cáo và của bị hại bà Ngô Thị P, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu án phí phúc thẩm hình sụ theo hướng dẫn tại Nghị quyết 326/NQ-UBTVQHK14 về án phí, lệ phí Tòa án.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn L và kháng cáo của bị hại Ngô Thị P, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ: Điểm e, n khoản 1 Điều 123; điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm i khoản 1 Điều 52; Điều 55; Điều 57 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Văn L 16 (Mười sáu) năm tù về tội “Giết người” và 7 (Bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của cả 02 tội buộc bị cáo phải chấp hành là 23 (Hai mươi ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 07/10/2019.

Về án phí phúc thẩm hình sự: Bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu 200.000 đồng tiền án phí phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trên đây là nội dung trình bày vềBản án về tội giết người, cướp tài sản mời bạn đọc thêm tham khảo và nếu có thêm những câu hỏi về nội dung trình bày này hay những vấn đề pháp lý khác về dịch vụ luật sư, tư vấn nhà đất, thành lập doanh nghiệp… hãy liên hệ với LVN Group theo thông tin bên dưới để nhận được sự hỗ trợ nhanh chóng và hiệu quả từ đội ngũ luật sư, chuyên viên pháp lý có nhiều năm kinh nghiệm từ chúng tôi. LVN Group đồng hành pháp lý cùng bạn.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com