Đã có án lệ liên quan tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa? - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Đã có án lệ liên quan tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa?

Đã có án lệ liên quan tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa?

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được pháp luật quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi 2017. Vậy các yếu tố để cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là gì? Mức xử phạt thế nào? Hiện nay đã có án lệ về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không? Mời bạn đọc theo dõi nội dung trình bày sau đây của LVN Group.

Án lệ về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1. Các yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là thế nào?

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi 2017, các yếu tố cấu thành của tội này như sau:

Mặt khách quan: – Về hành vi: Có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản

– Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả (không đúng sự thật) nhưng làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ viết (viết thư), bằng hành động … (ví dụ: kẻ phạm tội nói là mượn xe đi chợ nhưng sau khi lấy được xe đem bán lấy tiền tiêu xài không trả xe cho chủ sở hữu) và bằng nhiều cách thức khác như giả vờ vay, mượn, thuê để chiếm đoạt tài sản

– Chiếm đoạt tài sản, được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình. Đặc điểm của việc chiếm đoạt này là nó gắn liền và có mối quan hệ nhân quả với hành vi dùng thủ đoạn gian dối

Vì vậy, có thể phân biệt với những trường hợp dùng thủ đoạn gian dối khác, chẳng hạn dùng thủ đoạn cân, đong, đo đếm gian dối nhằm ăn gian, bớt của khách hàng hoặc để bán hàng giả để thu lợi bất chính thì không cấu thành tội này mà cấu thành tội lừa dối khách hàng hoặc tội buôn bán hàng giả.

Lưu ý: thời gian hoàn thành tội phạm này được xác định từ lúc kẻ phạm tội đã chiếm giữ được tài sản sau khi đã dùng thủ đoạn gian dối để làm cho người chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản bị mắc lừa gia tài sản cho kẻ phạm tội hoặc không nhận tài sản đáng lẽ phải nhận.

– Dấu hiệu bắt buộc của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Nếu có hành vi gian dối mà không có hành vi chiếm đoạt (chỉ chiếm giữ hoặc sử dụng), thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người có hành vi gian dối trên bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm giữ trái phép hoặc tội sử dụng trái phép tài sản, hoặc đó chỉ là quan hệ dân sự

Dấu hiệu khác: Về giá trị tài sản chiếm đoạt: Giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ hai triệu đồng trở lên. Nếu dưới hai triệu đồng thì phải thuộc trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bi kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì người thực hiện hành vi nêu trên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.

Khách thể: Hành vi nêu trên xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác.

Mặt chủ quan: Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý.

2. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự là gì?

Theo Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 thì chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ: Tố giác của cá nhân; Tin báo của đơn vị, tổ chức, cá nhân; Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng; Kiến nghị khởi tố của đơn vị nhà nước; Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm; Người phạm tội tự thú.

3. Dự thảo án lệ số 06

Án lệ số …./2018/AL về hành vi phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày tháng năm và được công bố theo Quyết định số /QĐ-CA ngày tháng năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 08/2015/HS-GĐT ngày 23-4-2015 của Tòa Hình sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đối với bị cáo: Dương Huỳnh Nhựt M sinh năm 1990; Trú tại: Số 55 lô B, khu phố 3, đường T, phường A, quận B, thành phố Hồ Chí Minh; Không có tiền án, tiền sự.

(Mặt khác, trong vụ án còn có các bị cáo Nguyễn Ngọc C, Phạm Thanh V, Trần Thành D và Thượng Hữu T đều bị kết án về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”);

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 3 phần “Nhận định của Tòa án”.

Khái quát nội dung của án lệ:

– Tình huống án lệ:

Bị cáo dùng giấy tờ giả, xe máy mang biển kiểm soát giả đi cầm cố nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, việc chưa chiếm đoạt được tài sản và không thực hiện được tội phạm đến cùng do nguyên nhân ngoài ý muốn của bị cáo.

– Giải pháp pháp lý:

Trường hợp này, Tòa án phải xác định hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” nhưng ở giai đoạn phạm tội chưa đạt.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

– Điểm e khoản 2 Điều 139 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (tương ứng với điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015);

Từ khoá của án lệ:

“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; “Phạm tội chưa đạt”; “Thủ đoạn gian dối”; “Các tội xâm phạm sở hữu”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Vào lúc 12 giờ 20 phút ngày 26/9/2011, tại tiệm cầm đồ Q, số 306/1 ấp 1, xã S, thành phố B, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre bắt quả tang Thượng Hữu T có hành vi gian dối khi sử dụng giấy Chứng minh nhân dân và giấy Đăng ký mô tô, xe máy tên Nguyễn Minh H để cầm xe mô tô loại @150 biển số 71B1-026.72 cho chủ tiệm cầm đồ là Nguyễn Thị T1 với giá 20.000.000đ. Vật chứng thu giữ gồm:

– 01 xe mô tô loại @150 gắn biển số 71B1- 026.72, số máy: HI-KF03E- 0021248- HIKGG, số khung: ZDCKF03A0YF-021205.

– 01 giấy Chứng minh nhân dân số 320559318 tên Nguyễn Minh H (sinh ngày 07/8/1984, NĐKHKTT: số 143 C, phường M, thành phố B, tỉnh Bến Tre, cấp ngày 18/7/2010 tại Công an Bến Tre).

– 01 giấy đăng ký mô tô, xe máy số 005263 tên Nguyễn Minh H (sinh ngày 07/8/1984, NĐKHKTT: số 143 C, phường M, thành phố B, tỉnh Bến Tre); BSĐK 71B1- 026.72, số máy: HI- KF03E-0021248- HIKGG, số khung: ZDCKF03A0YF- 021205, cấp ngày 26/3/2011 tại Công an Bến Tre.

Qua điều tra Thượng Hữu T khai nhận: Ngày 24/9/2011, tại quận 8, thành phố Hồ Chí Minh, Phạm Thanh V rủ Thượng Hữu T về Bến Tre cầm xe mô tô với giấy tờ giả, thì T đồng ý. Để thực hiện ý định, V giao cho T lái xe mô tô loại @150 gắn biển số 71B1-026.72. Khi về đến Bến Tre trời đã tối, cả hai về nhà riêng nghỉ. Sáng ngày 25/9/2011, V lái xe mô tô 71B1-026.72 đến nhà chờ T đến tiệm chụp ảnh đối diện UBND thành phố Bến Tre kêu T chụp ảnh loại 3 x 4cm. Sau đó, V lấy ảnh mà T vừa chụp dán vào mẫu giấy Chứng minh nhân dân giả số 320559318 tên Nguyễn Minh H rồi đưa cho T cùng giấy đăng ký mô tô, xe máy giả số 005263 của xe mô tô 71B1-026.72 tên Nguyễn Minh H. V kêu T sử dụng giấy tờ giả trên đi cầm xe mô tô 71B1-026.72. Cả hai đến tiệm cầm đồ ở xã M cầm nhưng chủ tiệm không cầm. Sau đó cả hai đến tiệm cầm đồ Q cầm. Bà Nguyễn Thị T1 nghĩ xe mô tô 71B1-026.72 có giấy tờ thật nên đồng ý nhận cầm 20.000.000đ, nhưng do chủ nhật không có tiền nên bà T1 hẹn ngày hôm sau sẽ cầm. Sáng hôm sau, 26/9/2011, V lái xe mô tô 71B1-026.72 chở T đến cửa hàng nước S thuộc ấp 1, xã Đ, gần tiệm cầm đồ Q, V ngồi uống nước đợi, còn T đem xe mô tô 71B1-026.72 cùng giấy tờ giả đến tiệm Q cầm như đã hẹn thì bị bắt giữ. Riêng V bỏ trốn. Ngày 09/8/2012, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre mời được V về công tác, thì V thừa nhận phạm tội cùng T như nêu trên.

Căn cứ kết luận giám định số 310 ngày 09/12/2011 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận: Giấy Chứng minh nhân dân số 320559318 tên Nguyễn Minh H và giấy Đăng ký mô tô, xe máy số 005263 tên Nguyễn Minh H làm bằng phương pháp in phun màu.

Xe mô tô loại @150 gắn biển số 71Bl-026.72, SM: HI- KF03E- 0021248- HIKGG, SK: ZDCKF03A0YF- 021205 có biển số thật là 52T1-2089, do Dương Quốc T2 đăng ký ngày 03/4/2003 tại thành phố Hồ Chí Minh. Hiện T2 đã bán xe này cho người khác. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre đã thông báo truy tìm chủ sở hữu nhưng chưa xác định được chủ sở hữu.

Ngoài lần phạm tội trên, Phạm Thanh V còn khai nhận: Trước đó, trong thời gian công tác tại quận 8, thành phố Hồ Chí Minh, Phạm Thanh V quen với Nguyễn Ngọc C và Dương Huỳnh Nhựt M, cùng với thủ đoạn trên, từ 21/6/2011 đến 25/8/2011, C đã sáu lần đưa 06 xe mô tô các loại không rõ nguồn gốc cùng giấy đăng ký mô tô, xe máy và giấy Chứng minh nhân dân giả không có dán ảnh kêu V dẫn M đem về Bến Tre cầm, cụ thể như sau:

– Lần thứ l : Vào ngày 21/6/2011, C đưa cho M và V xe mô tô loại AIRBLADE gắn biển số 71H8-1818, số máy: NC110APE-0038864, số khung: NC110AP-0038864 cùng giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 056271 của xe mô tô 71H8-1818 và giấy Chứng minh nhân dân không có dán ảnh tên Nguyễn Minh H rồi kều V dẫn M đem về Bến Tre cầm. Về thành phố Bến Tre, V dẫn M đi chụp ảnh để dán vào mẫu giấy Chứng minh nhân dân và chỉ cho M tiệm cầm đồ Q để M vào cầm xe mô tô 71H8-1818 với giấy tờ giả cho bà Nguyễn Thị T1 được 35.000.000 đồng, đem tiền lên giao cho C. C chia cho M và V mỗi ngưòi 500.000 đồng, phần C được 34.000.000 đồng.

Căn cứ kết luận giám định số 79 ngày 04/6/2012 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận: Giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 056271 tên Nguyễn Minh H, sinh năm 1984, địa chỉ: 143C Hoàng Lam, phường 5, thành phố B; BSĐK 71H8-1818, số máy: NC110APE-0038864, số khung: NC110AP-0038864 cấp ngày 10/9/2010 tại Công an Bến Tre làm giả bằng phương pháp in phun màu.

Xe mô tô loại AIRBLADE gắn biển số 71H8-1818, số máy: NC110APE- 0038864, số khung: NC110AP-0038864 có biển số thật là 54N9-2038 do Trương Thị Thanh N đăng ký ngày 18/11/2009 tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 05/5/2011, chị N bị mất trộm tại ấp 1, phường P, quận B, thành phố Hồ Chí Minh. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bến Tre đã chuyển xe mô tô trên cho Cơ quan CSĐT Công an quận Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh xử lý theo thẩm quyền;

– Lần thứ 2: Ngày 30/6/2011, C đưa cho M và V xe mô tô loại HAYATE gắn biển số 71H8-2579, SM: F4A5-100689, SK: *RLSCF4EE- 070100689* cùng giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 056271 của xe mô tô 71H8-2579 và giấy chứng minh nhân dân không có dán ảnh tên Trần Minh H1 rồi kêu V và M đem xe về thành phố Bến Tre cầm. V lấy ảnh của V dán vào giấy chứng minh nhân dân rồi sử dụng số giấy tờ giả đó đến tiệm cầm đồ Q cầm xe mô tô 71H8-2579 cho bà Nguyễn Thi T1 được 15.000.000 đồng. V và M đem tiền lên giao cho C, C chia cho M và V mỗi người 500.000 đồng, phần C được 14.000.000 đồng.

Căn cứ kết luận giám định số 79 ngày 04/6/2012 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận: giấy đăng ký mô tô, xe máy số 056271 tên Trần Minh H1 sinh năm 1984, địa chỉ: 143C, phường N, thành phố B, BSĐK 71H8-2579, SM: F4A5-100689, SK: *RLSCF4EE- 070100689* cấp ngày 11/9/2010 tại Công an tỉnh Bến Tre làm giả bằng phương pháp in phim màu.

Biển số xe mô tô 71H8-2579 là xe ba bánh do Nguyễn Văn X ngụ số 539, ấp C, xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre đăng ký tại Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Bến Tre. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bến Tre đã thông báo truy tìm chủ sở hữu xe mô tô loại HAYATE, SM: F4A5-100689, SK: *RLSCF4EE-070100689* nhưng chưa tìm được chủ sở hữu.

– Lần thứ 3: Trước ngày 05/7/2011, C đưa cho M và V xe mô tô loại SH gắn biển số 71H5-2313, SM: KF08E*0084646*KTGE1, SK: ZDCK- F08A07F150334 cùng giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 107638 của xe mô tô 71H5-2313 và giấy chứng minh nhân dân không có dán ảnh tên Trương Thanh S để đem về Bến Tre cầm nhưng không được. V đem xe 71H5-2313 về gửi tại nhà V ở ấp H, xã M, thành phố B rồi cùng M trở lên thành phố Hồ Chí Minh báo cho C biết. Sau đó C kêu M rủ Trần Thành D (bạn của C và M) đi cầm. M hướng dẫn D cắt tóc, chụp hình dán vào giấy chứng minh nhân dân giả. Ngày 05/7/2011, V, M và D tiếp tục về Bến Tre. V lấy xe mô tô 71H5-2313 đưa cho M và D sử dụng giấy tờ giả đem đến tiệm cầm đồ Q. D vào cầm cho bà Nguyễn Thị T1 được 60.000.000 đồng. M và V đưa cho D 1.500.000 đồng, số tiền còn lại đưa lên cho C, C đưa cho M và V mỗi người 1.000.000 đồng, phần C được 56.500.000 đồng.

Căn cứ kết luận giám định số 79 ngày 04/6/2012 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận: giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 107638 tên Trương Thanh S, địa chỉ 446, ấp P, TT C, huyện C, BSĐK 71H5-2313, SM: KF08E*0084646*KTGE1, SK ZDCK-F08A07F150334, cấp ngày 11/6/2008 tại Công an Ben Tre làm giả bằng phương pháp in phun màu.

Xe mô tô loại SH gắn biển số 71H5-2313, SM KF08E*0084646*KTGE1, SK: ZDCK-F08A07F150334 có biển số thật là 59P1-155.81 do Đỗ Thanh S1 đăng ký tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 29/6/2011, anh S1 bị mất trộm tại khu phố 1, phường Tân Thới Hiệp, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre đã chuyển xe mô tô trên cho Cơ quan CSĐT Công an quận 12, thành phố Hồ Chí Minh xử lý theo thẩm quyền.

Biển số xe 71H5-2313 do Trần Văn C1 ngụ ấp 13, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre đăng ký tại Phòng cảnh sát giao thông Công an Bến Tre.

– Lần thứ 4: Ngày 03/8/2011, C đưa cho M và V xe mô tô loại AIRBLADE gắn biển số 71B3-01627, SM: JE27E0736839, SK RL-HJF2705BY031267 cùng giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 036275 của xe mô tô 71B3-016.27 và giấy chứng minh nhận dân không có dán ảnh tên Võ Ngọc H2 để đem về Bến Tre cầm. Khi về đến Bến Tre trời đã tối, cả 2 vào nhà trọ nghi. Sáng hôm sau, V dán ảnh V vào giấy chứng minh nhân dân rồi sử dụng giấy tờ giả đem đến tiệm cầm đồ U số 315A, khu phố 1, phường 5, thành phố B cầm xe mô tô 71B3-016.27 cho bà Ngô Trúc U được 30.000.000 đồng rồi cùng M đưa lên cho C, C đưa cho M và V mỗi người 700.000 đồng, phần C được 28.600.000 đồng.

Căn cứ kết luận giám định số 79 ngày 04/6/2012 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận: giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 036275 tên Võ Ngọc H2, địa chỉ ấp 4, QL 60E, huyện C, Bến Tre, BSĐK 71B3-016.27, SM: JF27E-0736839, SK: RL-HJF2705BY031267, cấp ngày 22/3/2011 tại Công an Bến Tre làm giả bằng phương pháp in phun màu.

Xe mô tô loại AIRBLADE gắn biển số 71B3-016.27, SM: JF27E- 0736839, SK: RL-HJF2705BY031267 có biển số thật là 61B1-056.54 do Trần Quốc T3 đăng ký tại Bình Dương. Ngày 30/7/2011, anh T3 bị mất trộm tại Siêu thị Coop Mark thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bên Tre đã chuyển xe mô tô trên cho Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử lý theo thẩm quyền.

Biển số xe 71B3-016.27 không đăng ký tại Phòng cảnh sát giao thông Công an Bến Tre.

– Lần thứ 5: Ngày 12/8/2011, C đưa cho M và V xe mô tô loại Lead gắn biển sổ 71B3-028.16, SM JF24E-0123426, SK: RLHJF24069Y101910 cùng giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 016870 của xe mô tô 71B3-028.16 và giấy chứng minh nhân dân không có dán ảnh tên Võ Ngọc H2 để đem về Bến Tre cầm. V dán ảnh V vào giấy chứng minh nhân dân rồi sử dụng giấy tờ giả đem đến tiệm cầm đồ P số 109/2C, ấp A, xã M, thành phố B cầm xe mô tô 71B3-028.16 cho bà Nguyễn Trần Phương T được 22.000.000 đồng rồi cùng M đưa lên cho C, C đưa cho M và V mỗi người 700.000 đồng, phần C được 20.600.000 đồng.

Căn cứ kết luận giám định số 79 ngày 04/6/2012 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 016870 tên Võ Ngọc Hưng, địa chỉ ấp 4, QL 60, huyện C, Bến Tre, BSĐK 71B3- 028.16, SM: JP24E-0123426, SK: RLHJF24069Y101910 , cấp ngày 21/3/2011 tại Công an Bến Tre làm giả bằng phương pháp in phun màu.

Xe mô tô loại Lead gắn biển số 71B3-028.16, SM: JF24E-0123426, SK: RLHJF24069Y101910 có biển số thật là 61S3-2521 do Lưu Văn Q đăng ký tại Bình Dương. Ngày 05/2/2011, anh Q bị mất trộm tại nhà số 72/8, đường T, ấp B, xã Đ, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre đã chuyển xe mô tô trên cho Cơ quan CSĐT Công an thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử lý theo thẩm quyền.

Biển số xe 71B3-028.16 không đăng ký tại Phòng cảnh sát giao thông Công an Bến Tre.

– Lần thứ 6: Ngày 25/8/2011, C đưa cho M 01 xe mô tô loại NOUVO LX gắn biển số 71B3-012.77, SM: 5P1-293531, SK: RLCN5P110BY293528 cùng giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 018026 của xe mô tô 71B3-012.77 và giấy chứng minh nhân dân không có dán ảnh tên Trần Văn A và đưa cho V 01 xe mô tô loại @150 gắn biển số 71B1-026.72, SM: HI-KF03E-0021248- HIKGG, SK: ZDCKF03A0YF-021205 cùng giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 005263 của xe mô tô 71B3-026.72 và giấy chứng minh nhân dân không có dán ảnh tên Nguyễn Minh H để đem về Bến Tre cầm. V dẫn M đến tiệm cầm đồ P để M vào cầm xe mô tô 71B3-012.77 cho bà Nguyễn Trần Phương T được 20.000.000 đồng. Riêng xe mô tô 71B1-026.72, V không cầm được. Sau đó, V và M đưa xe và tiền lên cho C, C đưa cho Minh 500.000 đồng, phần C được 19.500.000 đồng.

Căn cứ kết luận giám định số 79 ngày 04/6/2012 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận: giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 018026 tên Trần Văn A, địa chỉ QL 60, AK, huyện C, Bến Tre, BSĐK 71B3- 012.77, SM: 5P1-293531, SK: RLCN5P110BY293528, Cấp ngày 24/7/2011 tại Công an Bến Tre làm giả bằng phương pháp in phun màu.

Biển số xe mô tô 71B3-012.77 không đăng ký tại Phòng cảnh sát giao thông Công an Bến Tre. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bến Tre đã thông báo truy tìm chủ sở hữu xe mô tô loại NOUVO LX SM: 5P1-293531, SK: RLCN5P110BY293528 nhưng chưa tìm được chủ sở hữu.

Ngày 24/9/2011, sau khi nhận lại xe mô tô loại @150 gắn biển số 71B1- 026.72, Phạm Thanh V rủ Thượng Hữu T tiếp tục về Bến Tre cầm với giấy tờ giả thì bị bắt quả tang.

Theo Biên bản giám định pháp y tâm thần số 309/2013/TTGĐPYTT ngày 03/01/2014 của Trung tâm giám định pháp y tâm thần thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Trước, trong và sau khi phạm tội ngày 05/7/2011, bị can Trần Thành D bị bệnh tâm thần phân liệt, thể di chứng, giai đoạn thuyên giảm không hoàn toàn (F20.5.4-ICD10); hạn chế khả năng nhận thức và đỉều khiển hành vi.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2014/HSST ngày 05/3/2014, Toà án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre áp dụng điểm e khoản 2 Điều 139, điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 33, Điều 53 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Dương Huỳnh Nhựt M 04 năm 6 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thời hạn tù được tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Mặt khác bản án sơ thầm còn quyết định về hình phạt đối vói các bị cáo khác, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo hướng dẫn của pháp luật.

Ngày 17/03/2014, bị cáo Dương Huỳnh Nhựt M có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt.

Ngày 19/6/2014, bị cáo M có đơn xin rứt đơn kháng cáo vói nội dung mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt là phù hợp.

Ngày 26/6/2014 bị cáo M có đơn xin rút lại đơn yêu cầu hủy đơn kháng cáo với nội dung yêu cầu tiếp tục xét xử phúc thẩm.

Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 66/2014/HSPT ngày 30/6/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre quyết định hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 18/2014/HSST ngày 05/3/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre để điều tra, xét xử lại theo trình tự thủ tục chung, với lý do: Thượng Hữu T là người thực hiện giao dịch cầm cố với bà T1, trong khi bà T1 đang kiểm tra tính hợp lệ của giấy tờ để thực hiện việc cầm cố thì bị bắt quả tang, T chưa chiếm đoạt được tài sản và người bị hại chưa bị tổn hại về tài sản, chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (yếu tố cấu thành tội này là khi tài sản bị chiếm đoạt), cấp sơ thẩm chưa làm rõ số tiền bị bắt quả tang để xem xét yếu tố cấu thành tội danh đối với Thượng Hữu T và yếu tố định khung hình phạt đối với Nguyễn Ngọc C và Phạm Thanh V. Quan điểm của Kiểm sát viên đề nghị cần làm rõ hành vi làm giả giấy tờ của đơn vị tổ chức trong vụ án để áp dụng đúng pháp luật đối với các bị cáo là có cơ sở. Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện việc nghị án thể hiện tại biên bản nghị án không ghi tỷ lệ biểu quyết của Hội đồng xét xử là không đúng quy định tại Điều 17 và Điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự là vi phạm thủ tục tố tụng.

Tại Kháng nghị giám đốc thẩm số 51/2014/KN-HS ngày 19/11/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm số 66/2014/HSPT ngày 30/6/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre và đề nghị Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thấy rằng:

[1] Các bị cáo Thượng Hữu T và Phạm Thanh V biết các loại giấy tờ mang đi cầm cố là giấy tờ giả, biển số xe máy là biển giả và đã sử dụng các giấy tờ giả để mang đi cầm cố tại hiệu cầm đồ của bà Nguyễn Thị T1 nhằm chiếm đoạt số tiền 20.000.000đ mà bà T1 đã thỏa thuận cho các bị cáo cầm xe. Trong quá trình điều tra, V khai nhận trong khoảng thời gian từ ngày 21/6/2011 đến ngày 25/8/2011 V quen với Nguyễn Ngọc C và Dương Huỳnh Nhựt M, Trần Thành D. C đã 06 lần đưa 06 xe mô tô các loại không rõ nguồn gốc cùng giấy đăng ký xe mô tô giả, giấy chứng minh nhân dân giả không có dán ảnh kêu V dẫn M, D đem về Bến Tre cầm để chiếm đoạt tài sản của các chủ tiệm cầm đồ. Tổng cộng C và V tham gia 07 lần chịu trách nhiệm trên số tiền chiếm đoạt là 202.000.000đ, M tham gia 06 lần chịu trách nhiệm trên số tiền chiếm đoạt là 182.000.000đ, D tham gia 01 lần chịu trách nhiệm trên số tiền chiếm đoạt là 60.000.000đ, T tham gia 01 lần chịu trách nhiệm trên số tiền chiếm đoạt là 20.000.000đ. Tòa án cấp sơ thẩm kết án các bị cáo Nguyễn Ngọc C, Phạm Thanh V, Dương Huỳnh Nhựt M, Trần Thành D, Thượng Hữu T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm còn có sai sót là tại Biên bản nghị án không ghi tỷ lệ biểu quyết của Hội đồng xét xử về từng vấn đề một là không đúng quy định tại Điều 17 và Điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự, do đó cần phải rút kinh nghiệm.
[3] Khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm nhận định Thượng Hữu T chưa chiếm đoạt được tài sản và người bị hại (bà T1) chưa bị tổn hại về tài sản nên hành vi của T chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; các bị cáo biết các loại giấy tờ mang đi cầm cố là giấy tờ giả và sử dụng giấy tờ giả mang đi lừa dối các tiệm cầm đồ nên hành vi của các bị cáo có dấu hiệu phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của đơn vị, tổ chức” và hủy Bản án sơ thẩm để điều tra lại là sai lầm nghiêm trọng. Bởi vì, bị cáo T và V không thực hiện tội phạm được đến cùng là do trong lúc bà T1 đang kiểm tra giấy tờ thì bị Công an thành phố Bến Tre bắt quả tang (do nguyên nhân ngoài ý muốn của các bị cáo). Vì vậy, hành vi phạm tội của các bị cáo là ở giai đoạn phạm tội chưa đạt, hành vi dùng giấy tờ giả và xe máy mang biển kiểm soát giả đi cầm cố là hành vi dùng thủ đoạn gian dối để các chủ tiệm cầm đồ tin và tự nguyện giao tiền cho các bị cáo, là đặc điểm nổi bật của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự;

QUYẾT ĐỊNH

Hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 66/2014/HSPT ngày 30/6/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“[3] Khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm nhận định Thượng Hữu T chưa chiếm đoạt được tài sản và người bị hại (bà T1) chưa bị tổn hại về tài sản nên hành vi của T chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; các bị cáo biết các loại giấy tờ mang đi cầm cố là giấy tờ giả và sử dụng giấy tờ giả mang đi lừa dối các tiệm cầm đồ nên hành vi của các bị cáo có dấu hiệu phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của đơn vị, tổ chức” và hủy Bản án sơ thẩm để điều tra lại là sai lầm nghiêm trọng. Bởi vì, bị cáo T và V không thực hiện tội phạm được đến cùng là do trong lúc bà T1 đang kiểm tra giấy tờ thì bị Công an thành phố Bến Tre bắt quả tang (do nguyên nhân ngoài ý muốn của các bị cáo). Vì vậy, hành vi phạm tội của các bị cáo là ở giai đoạn phạm tội chưa đạt, hành vi dùng giấy tờ giả và xe máy mang biển kiểm soát giả đi cầm cố là hành vi dùng thủ đoạn gian dối để các chủ tiệm cầm đồ tin và tự nguyện giao tiền cho các bị cáo, là đặc điểm nổi bật của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.”

Trên đây là những thông tin LVN Group muốn chia sẻ đến bạn đọc về án lệ về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong quá trình nghiên cứu, nếu quý khách hàng có bất kỳ câu hỏi nào về nội dung trình bày hay cần hỗ trợ pháp lý vui lòng liên hệ với chúng tôi để được tư vấn và trả lời.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com