Một số bản án về tội lừa đảo chiếm giữ trái phép tài sản - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Một số bản án về tội lừa đảo chiếm giữ trái phép tài sản

Một số bản án về tội lừa đảo chiếm giữ trái phép tài sản

Chỉ vì lòng tham mà một số người đã chiếm hữu tài sản của người khác hoặc tài sản chưa tìm được chủ một cách ngang nhiên. Điều này xâm phạm đến các quy định quản lý của Nhà nước về quyền sở hữu. Cái giá phải trả cho lòng tham này là những Bản án về tội chiếm giữ trái phép tài sản mà chính bản thân họ gây ra. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, mời bạn đọc cùng theo dõi nội dung trình bày: Một số bản án về tội lừa đảo chiếm giữ trái phép tài sản.

Một số bản án về tội lừa đảo chiếm giữ trái phép tài sản

1. Chiếm giữ trái phép tài sản là gì?

Chiếm giữ trái phép tài sản là hành vi chuyển dịch tài sản của người khác đang có một cách hợp pháp thành tài sản của mình một cách trái phép. Biểu hiện của sự chuyển dịch này là hành vi tiếp tục chiếm hữu, là hành vì sử dụng hoặc là hành vi định đoạt tài sản. Xét về tính chất, hành vi chiếm giữ trái phép tài sản cũng giống như hành vi chiếm đoạt tài sản. Giữa hai hành vi này chỉ có sự khác nhau ở đặc điểm của tài sản là đối tượng của hành vi phạm tội – đối tượng của hành vi chiếm giữ là tài sản đang trong tình trạng không có người quản lí như tài sản bị giao nhầm, bị bỏ quên, bị đánh rơi… còn đối tượng của hành vi chiếm đoạt là tài sản đang có người quản lí…

2. Chiếm giữ trái phép tài sản theo hướng dẫn mới nhất của BLHS?

Theo quy định tại Điều 176 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017 thì việc chiếm giữ tài sản của người khác được quy định như sau:

1. Người nào cố tình không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không giao nộp cho đơn vị có trách nhiệm tài sản trị giá từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc dưới 10.000.000 đồng nhưng tài sản là di vật, cổ vật bị giao nhầm hoặc do mình tìm được, bắt được, sau khi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc đơn vị có trách nhiệm yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo hướng dẫn của pháp luật, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

2. Phạm tội chiếm giữ tài sản trị giá 200.000.000 đồng trở lên hoặc bảo vật quốc gia, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Theo đó, việc truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội chiếm giữ trái phép tài sản chỉ khi mà tài sản chiếm giữ có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên hoặc dưới 10 triệu đồng nhưng tài sản là di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hóa.

3. Bản án về tội lừa đảo chiếm giữ trái phép tài sản

Bản án số 25/2021/HSST ngày 23/4/2021 “V/v xét xử bị cáo NTL về tội cố ý chiếm giữ tài sản” của Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.

Vào thời gian buổi sáng ngày 20/01/2020 bị cáo N T L đến Phòng  giao  dịch PT thuộc Ngân hàng TMCP đầu tư và phát  triển Việt  Nam – Chi  nhánh  ST (Ngân  hàng BIDV), có trụ sở tại:  Tổ dân  phố số 6,  thị trấn PT, huyện PT,  Thành  phố Hà  Nội để làm  thủ tục rút tiền gửi tiết kiệm. Do lúc đó khách hàng đến giao dịch đông nên chuyên viên Phòng giao dịch đã hẹn bị cáo L đến buổi chiều.

Đến thời gian khoảng 14 giờ bị cáo cùng chồng là ông Nguyễn Đức A đến Phòng giao dịch để làm thủ tục rút tiền. Sau khi nhận được yêu cầu rút tiền của bị cáo, chị N T L1 là chuyên viên Phòng giao dịch của Ngân hàng đã tiếp nhận và làm các thủ tục để bị cáo rút tiền. Chị N T L1 đã hướng dẫn yêu cầu bị cáo điền trọn vẹn thông tin vào các biên lai, chứng từ theo hướng dẫn. Bị cáo đã làm thủ tục kê khai để rút số tiền  780.000.000 đồng là tiền gửi  tiết  kiệm.

Quá trình công tác,chị L1 đã làm thủ tục và kiểm đếm tiền của Phòng giao dịch bàn giao cho bị cáo tổng cộng số tiền là  780.025.000 đồng; bao gồm 780.000.000 đồng là tiền  gốc và  25.000 đồng  tiền lãi. Tuy nhiên trong quá trình kiểm đếm, chị L1 đã sơ suất đếm thừa một cọc tiền mệnh giá 500.000đồng, tổng giá trị là 50.000.000 đồng và bàn giao chung với số tiền 780.025.000 đồng.Vì vậy, chị N T L1 đã bàn giao cho bị cáo tổng số tiền là 830.025.000 đồng.

Sau khi nhận tiền, bị cáo đã cho toàn bộ số tiền vào túi ni lông và ngay sau đó cùng chồng mang sang bên Ngân hàng Bưu điện LV, có trụ sở tại thị trấn PT, huyện PT, Thành phố Hà Nội để làm thủ tục gửi tiền tiết kiệm. Tại Ngân hàng Bưu điện LV, bị cáo là người trực tiếp giao dịch kiểm đếm số tiền 780.000.000 đồng và giao cho chuyên viên Ngân hàng để gửi tiết kiệm. Trong khi kiểm đếm bị cáo phát hiện trong túi nilon còn một cọc tiền mệnh giá 500.000 đồng, bị cáo biết số tiền này  do  nhân  viên Phòng giao dịch của  Ngân hàng BIDV  giao  thừa trước đó. Sau khi gửi tiền tiết kiệm, bị cáo đã mang số tiền này về nhà cất giấu. Đến cuối giờ công tác cùng ngày, Phòng giao dịch của Ngân hàng BIDV tiến hành kiểm quỹ theo hướng dẫn. Qua kiểm tra đối chiếu chứng từ, Ngân hàng phát hiện thiếu hụt số tiền 50.000.000 đồng nên đã yêu cầu các chuyên viên giao dịch kiểm tra đối chiếu sổ sách, chứng từ nhưng không phát hiện nhầm lẫn, sai sót. Ngân hàng tiếp tục tiến hành kiểm tra lại hình ảnh camera an ninh lắp đặt tại từng quầy giao dịch,  thì phát hiện chị N  T  L1 trong  quá  trình  kiểm đếm,  bàn giao tiền đã để nhầm  lẫn,  trả thừa  một  cọc  tiền  mệnh  giá  500.000 đồng trong tổng số tiền đã bàn giao cho khách hàng là bị cáo N T L. Sau khi xác định bị cáo là người đã cầm thừa số tiền trên, uỷ quyền Phòng giao dịch của Ngân hàng là bà Nguyễn Thị Minh T – Giám đốc Phòng giao dịch và chị N T L1 chuyên viên Phòng giao dịch đã nhiều lần đến nhà gặp bị cáo trao đổi,  giải thích và đề nghị xin được  nhận  lại  số tiền  50.000.000 đồng đã giao thừa, nhưng bị cáo khẳng định không  có  việc  nhận  thừa tiền. Sau đó đại  diện Phòng  giao  dịch  và  chị N  T  L1 có đơn trình báo, tố giác sự việc đến Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện PT, Thành phố Hà Nội đề nghị giải quyết theo hướng dẫn của pháp luật.

Quá  trình  xác  minh,  giải  quyết nguồn  tin  báo tố giác, bị cáo nhiều  lần không thừa nhận việc nhận thừa tiền, không trả lại số tiền mà chuyên viên Phòng giao  dịch đã trả thừa. Ngày  15/6/2020  Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trưng cầu Viện khoa học hình sự – Bộ Công an giám định hình ảnh đối với đoạn video clip được trích xuất thu giữ từ camera an ninh của Phòng giao dịch. Ngày 18/8/2020 Viện Khoa học hình sự – Bộ Công an đã kết luận: Không phát hiện dấu hiệu cắt ghép, chỉnh sửa trong nội dung tệp video gửi giám định. Phần thuộc tính của tệp tin thể hiện tệp tin trên được khởi tạo vào ngày 21/01/2020. Tuy nhiên thời gian khởi tạo trên phụ thuộc vào thời gian của hệ thống và có thể chỉnh sửa được. Xác định được chuyên viên Ngân hàng đã đưa tổng cộng cho bị cáo L là 03 (Ba) cọc tiền, 01 tập tiền và 02 tờ tiền, cụ thể gồm: 17 (Mười bảy) tập tiền chứa các tờ tiền có mệnh giá 500.000 đồng trong đó có 16 (Mười sáu) tập tiền có ít nhất 100 tờ tiền và 01 tập tiền có ít nhất 58 tờ tiền; 01 tờ tiền có mệnh giá 20.000 đồng; 01 tờ tiền có mệnh giá 5.000 đồng.

Sau khi nhận được thông báo về nội dung kết luận giám định, ngày 21/9/2020 bị cáo đã tự nguyện đến Cơ quan điều tra – Công an huyện PT, Thành phố Hà Nội giao nộp số tiền 50.000.000 đồng và thừa nhận số tiền trên là của chuyên viên Phòng giao dịch PT đưa thừa cho bị cáo.

Bị cáo là người có trọn vẹn năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Do vậy, cần phải xử lý hình phạt đối với bị cáo tương xứng với hành vi đã gây ra để giáo dục đối với bị cáo.

Vì lẽ đó, Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội quyết định tuyên bố bị cáo N T L phạm tội chiếm giữ trái phép tài sản, xử phạt phạt tiền bị cáo N  T  L 15.000.000 (Mười lăm triệu) đồng về tội Chiếm giữ trái phép tài sản.

Trả lại Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh ST – Phòng giao dịch PT số tiền 50.000.000 (Năm mươi triệu) đồng

(Số tiền này đã được Công an huyện PT, Thành phố Hà Nội nộp vào tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự huyện PT, Thành phố Hà Nội tại Giấy nộp tiền vào tài khoản lập ngày 22/4/2021).

Trên đây là các nội dung trả lời của chúng tôi về Một số bản án về tội lừa đảo chiếm giữ trái phép tài sản. Trong quá trình nghiên cứu, nếu như các bạn cần Công ty Luật LVN Group hướng dẫn các vấn đề pháp lý vui lòng liên hệ với chúng tôi để được trả lời.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com