Một số bất cập trong hợp đồng tặng cho tài sản - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Một số bất cập trong hợp đồng tặng cho tài sản

Một số bất cập trong hợp đồng tặng cho tài sản

Tặng cho tài sản là một trong những giao dịch dân sự diễn ra phổ biến trong đời sống hằng ngày như tặng cho động sản, tặng cho tiền, tặng cho bất động sản,… Tuy nhiên không phải tất cả mọi người đều nắm rõ các quy định pháp luật liên quan đến tặng cho tài sản bởi vậy mà gặp phải không ít các rủi ro trong việc thực hiện tặng cho tài sản. Hiện nay, hợp đồng tặng cho tài sản cũng gặp không ít bất cập, dẫn đến khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp xảy ra trên thực tiễn. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, mời bạn đọc cùng theo dõi nội dung trình bày: Một số bất cập trong hợp đồng tặng cho tài sản.

Một số bất cập trong hợp đồng tặng cho tài sản

1. Hợp đồng tặng cho tài sản là gì?

Hợp đồng tặng cho tài sản bản chất là hợp đồng hình thành dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên tặng cho giao quyền sở hữu tài sản của mình cho bên được tặng cho mà không yêu cầu bên được tặng cho đền bù và được sự đồng ý của bên được tặng cho.

Hợp đồng tặng cho tài sản là hợp đồng không mang tính đền bù bởi thứ nhất, hợp đồng tặng cho nằm ngoài quy luật về trao đổi ngang giá. Bên tặng cho trao cho bên được tặng cho một khoản lợi ích bằng vật chất mà không yêu cầu bên được tặng cho trao lại cho mình khoản lợi ích khác.

Hợp đồng tặng cho tài sản hay hợp đồng tặng cho tiền luôn là hợp đồng thực tiễn bởi dù hai bên đã thỏa thuận tài sản cụ thể thế nào như: tặng cho tiền, tặng cho quyền sử dụng đất, tặng cho xe máy,…; các điều kiện và thời hạn giao dịch,… nhưng nếu bên tặng cho chưa giao tài sản thì hợp đồng tặng cho chưa được coi là đã xác lập. Các bên trong hợp đồng không được quyền yêu cầu trong việc thực hiện hợp đồng.

Đặc điểm của hợp đồng tặng cho tài sản:

–  Hợp đồng tặng cho tài sản là một hợp đồng không có đền bù

Hợp đồng tặng cho tài sản là một hợp đồng nằm ngoài quy luật trao đổi ngang giá. Trong hợp đồng tặng cho, một bên (bên tặng cho) trao cho bên kia (bên được tặng cho) một khoản lợi ích vật chất (tài sản tặng cho) mà không yêu cầu bên kia phải trao lại cho mình một lợi ích vật chất khác. Người nhận tài sản được tặng cho không phải trả cho bên đã tặng cho một khoản tiền hay một lợi ích vật chất nào.

–  Hợp đồng tặng cho tài sản luôn là hợp đồng thực tiễn

Trong hợp đồng tặng cho tài sản, dù hai bên đã có sự thoả thuận cụ thể về đối tượng tặng cho (là tiền hoặc tài sản), điều kiện và thời hạn giao tài sản tặng cho nhưng nếu bên tặng cho chưa giao tài sản cho người được tặng cho, thì hợp đồng tặng cho tài sản chưa được coi là xác lập. Các bên trong hợp đồng không có quyền yêu cầu đối với nhau trong việc thực hiện hợp đồng. Việc hứa tặng cho không làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản. Bên được tặng cho không có quyền yêu cầu bên tặng cho phải giao tài sản đã hứa tặng cho.

–  Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản

Do tính chất đặc biệt của hợp đồng tặng cho tài sản không mang tính đền bù tương đương nên pháp luật dân sự có quy định riêng về thời gian có hiệu lực như sau:

+ Hợp đồng tặng cho động sản có hiệu lực khi bên được tặng cho nhận tài sản; đối với động sản mà pháp luật có quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời gian đăng ký.

+ Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu theo hướng dẫn của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.

Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời gian đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời gian chuyển giao tài sản.

2. Quy định về hợp đồng tặng cho tài sản

Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản khác với các loại hợp đồng khác. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản hoặc tặng cho tiền khi bên được tặng cho nhận tài sản. Nếu đối tượng của hợp đồng là tài sản phải đăng ký quyền sử hữu thì hợp đồng tặng cho sẽ có hiệu lực từ thời gian ký.

Về cách thức của hợp đồng, hợp đồng tặng cho tài sản phải được lập thành văn bản. Đối với tài sản là bất động sản phải được công chứng hoặc chứng thực của đơn vị có thẩm quyền và đăng ký quyền sở hữu theo hướng dẫn của pháp luật.

Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời gian đăng ký. Trong trường hợp không đăng ký thì hợp đồng có hiệu lực kể từ thời gian chuyển giao tài sản.

Hợp đồng tặng cho là một hợp đồng đơn vụ. Tính đơn vụ trong hợp đồng tặng cho tài sản đó là một bên được nhận tài sản tặng cho mà không cần phải thực hiện một nghĩa vụ gì đối với bên đã tặng cho (trừ trường hợp tặng cho có điều kiện. Bởi vậy mà một số quan điểm chó rằng hợp đồng tặng cho không hoàn toàn là hợp đồng đơn vụ.

3. Một số bất cập trong hợp đồng tặng cho tài sản

Tặng cho tài sản có điều kiện là trường hợp rất hay gặp trong thực tiễn. Theo quy định tại Điều 462 Bộ luật Dân sự 2015, tặng cho tài sản có điều kiện là việc “bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật; không trái đạo đức xã hội”.

Điều kiện ở đây là bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ. Thời điểm phát sinh là trước hoặc sau khi tặng cho. Vì vậy, có hai trường hợp:

Thứ nhất: Điều kiện phát sinh trước khi tặng cho. Theo đó, bên được tặng cho phải thực hiện nghĩa vụ trước thì hợp đồng tặng cho mới có hiệu lực.

Thứ hai: Hợp đồng tặng cho đã có hiệu lực. Bên được tặng cho thực hiện nghĩa vụ sau khi được tặng cho.

Vấn đề chúng ta cần hiểu ở đây bản chất của điều kiện là gì? Theo quy định tại Khoản 1, Điều 462 Bộ luật Dân sự 2015, điều kiện được tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

Ví dụ: A tặng cho B một mảnh đất với điều kiện B phải thực hiện đóng nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước mà A còn nợ đối với mảnh đất đó.

Hoặc A tặng cho B một căn nhà với điều kiện là B phải cho A sống cùng trong ngôi nhà đó.

Hậu quả pháp lý phát sinh nếu bên được tặng cho không thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết được quy định cụ thể tại khoản 2, khoản 3 Điều 462 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:

“Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện.

Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường tổn hại”.

Trên thực tiễn, có nhiều trường hợp hiểu sai bản chất của điều kiện được tặng cho nên dẫn đến trong điều khoản quy định về điều kiện tặng cho trái quy định pháp luật. Ví dụ như Ông A và Bà B muốn tặng cho con trai là anh C một mảnh đất với điều kiện Anh C phải đưa cho Ông A và Bà B số tiền 500.000.000 đồng. Về bản chất, đây là việc Ông A và Bà B chuyển nhượng cho Anh C cho nên phải lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mới đúng.

Hoặc có rất nhiều trường hợp bố mẹ muốn tặng cho con quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất nhưng với điều kiện con không được chuyển nhượng, thế chấp, tặng cho người khác…Những điều kiện mà bên tặng cho tài sản đưa ra không đúng với quy định pháp luật vì nó hạn chế quyền năng của chủ sở hữu (quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt). Cho nên những điều kiện này không được đưa vào trong hợp đồng tặng cho tài sản.

Vì vậy, pháp luật dân sự cho phép, trong trường hợp tặng cho có điều kiện, sau khi tặng cho, người tặng cho vẫn được quyền đòi lại tài sản, nếu bên được tặng cho không thực hiện các điều kiện đó: ‘‘Trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường tổn hại”. Pháp luật chỉ quy định các điểu kiện trong hợp đồng tặng cho có điều kiện là “Điều kiện tặng cho không được trái pháp luật, đạo đức xã hội” mà không nêu cụ thể các điều kiện đó là gì. Trên thực tiễn, các điều kiện đó thường là trách nhiệm của người được tặng cho phải nuôi dưỡng, cấp dưỡng cho người tặng cho. Có thể các điều kiện mà người tặng cho đặt ra đọì vối người được tặng cho không trái pháp luật và đạo đức, nhưng không có tính khả thi hoặc quá khắt khe, làm cho người được tặng cho không thể thực hiện được, tuy nhiên pháp luật cũng không có quy định về vấn đề này. Mặt khác, pháp luật không quy định rõ đã tặng cho thì không được đòi lại tài sản, nhưng cũng bỏ ngỏ điều kiện để hủy bỏ việc tặng cho. Ví dụ, như người được tặng cho xâm phạm đến tính mạng của người tặng cho hay xúc phạm nặng nề đến danh dự nhân phẩm của người tặng cho thì cần phải hủy bỏ việc tặng cho tài sản đó.

Giống như tặng cho tài sản thông thường, pháp luật phải có quy định các điều kiện trong hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất không những không được trái pháp luật, đạo đức xã hội, mà còn phải có khả năng thực hiện được; ví dụ cha mẹ tặng cho con quyền sử dụng đất vối điều kiện người con phải nuôi dưỡng cha mẹ, nhưng vì người con ở một địa phương khác không có khả năng thực hiện điều kiện đặt ra là nuôi dưỡng cha mẹ được. Chính vì lẽ đó, chỉ có những gì có thể có được, không chống lại trật tự công cộng, thuần phong, mỹ tục và không chống lại điều cấm của pháp luật mới có thể trở thành điều kiện trong nghĩa vụ có điều kiện và tất nhiên hệ quả là pháp luật vô hiệu hóa tất cả các điều kiện không đáp ứng được các tiêu chuẩn như vậy, dẫn tới hợp đồng phụ thuộc vào các điều kiện đó củng vô hiệu . Đồng thời, các điều kiện cần phải dự liệu các trường hợp bất khả kháng như người con có nghĩa vụ nuôi dưỡng cha mẹ, nhưng người con chết trước cha mẹ thì xử lý hậu quả hợp đồng thế nào; cũng như nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng khi các điều kiện đó được thực hiện một phần, toàn bộ hay chưa được thực hiện, như nghĩa vụ nuôi dưỡng của con đối vói cha mẹ có thể trong một giai đoạn nhất định, có thể kéo dài hết đời của cha mẹ.

Tặng cho quyển sử dụng đất có điều kiện là hai bên lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, trong đó người tặng cho thỏa thuận với người được tặng cho là người được tặng cho phải làm nghĩa vụ đối vối người tặng cho khi thực hiện hợp đồng. Nghĩa vụ của người được tặng cho đôi vói người tặng cho có thể thực hiện trưốc khi nhận quyền sử dụng đất tặng cho, nhưng cũng có thể thực hiện sau khi nhận quyền sử dụng đất tặng cho. Việc thực hiện nghĩa vụ trước hay sau khi nhận quyền sử dụng đất là do sự thỏa thuận giữa người tặng cho với người được tặng cho. Tuy nhiên, điều kiện tặng cho không được trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Do đó, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có điều kiện muốn có hiệu lực phải có điều kiện sau:

Thứ nhất, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất phải có đủ các điều kiện giống như các điều kiện đối với tặng cho quyền sử dụng đất không có điều kiện như nêu trên.

Thứ hai, trường hợp bên được tặng cho đã thực hiện nghĩa vụ trưởc khi tặng cho, thì hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên tặng cho giao quyền sử dụng đất cho bên được tặng cho; trường hợp bên được tặng cho phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho, thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ khi bên được tặng nhận quyển sử dụng đất và thực hiện nghĩa vụ.

Những trường hợp có thể xảy ra, sau khi người được tặng cho thực hiện xong nghĩa vụ đối vối người tặng cho, thì người tặng cho quyền sử dụng đất không giao đất và không chuyển quyền sử dụng đất cho người được tặng cho. Trong trường hợp này hợp đồng tặng cho đã có hiệu lực, quyền sử dụng đất đã được sang tên cho người được tặng cho, nhưng điều bất hợp lý là hợp đồng chỉ có hiệu lực đốì với Nhà nước khi bên được tặng cho đăng ký, mà hợp đồng không có hiệu lực đối với bên tặng cho thực hiện nghĩa vụ hợp đồng là phải giao đất, nhưng pháp luật chỉ quy định người được tặng cho chỉ có quyền yêu cầu người tặng cho thanh toán nghĩa vụ mà họ đã thực hiện. Trong trường hợp này, lẽ ra, pháp luật cần phải có quy định buộc người tặng cho giao đất cho người được tặng cho.

Trường hợp ngược lại, sau khi nhận đất và sang tên quyền sử dụng đất, người được tặng cho đã không thực hiện nghĩa vụ đúng theo các điều kiện giao kết trong hợp đồng đối với người tặng cho, thì người tặng cho có quyền đòi lại đất và yêu cầu đòi bồi thường tổn hại. Pháp luật không nêu rõ các điều kiện mà người tặng cho có thể hủy bỏ hợp đồng, tương tự pháp luật các nưốc như “Bội ơn”, cũng như không quy định nghĩa vụ không được thực hiện là thế nào, làm căn cứ có thể hủy bỏ hợp đồng, vì đôi khi các nghĩa vụ đặt ra không có khả năng thực hiện được. Do đó, cần xác định việc không thực hiện nghĩa vụ có lỗi được không, bên tặng cho mối có quyền yêu cầu bồi thường tổn hại. Trong trường hợp người được tặng cho đã nhận đất để sử dụng và đã đầu tư trên đất như xây dựng nhà ở, vật kiến trúc, trồng cây lưu niên, chỉ vì một lý do “không làm tròn nghĩa vụ” mà người tặng cho yêu cầu hủy hợp đồng, thì quyền yêu cầu bồi thường tổn hại do đã đầu tư trên đất lẽ ra phải thuộc về người được tặng cho. Tuy pháp luật đã gián tiếp quy định tặng cho quyền sử dụng đất có điều kiện, nhưng vấn đề này vẫn còn nhiều khoảng trống và kẽ hở, cần được hoàn thiện.

Trên đây là các nội dung trả lời của chúng tôi về Một số bất cập trong hợp đồng tặng cho tài sản. Trong quá trình nghiên cứu, nếu như các bạn cần Công ty Luật LVN Group hướng dẫn các vấn đề pháp lý vui lòng liên hệ với chúng tôi để được trả lời.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com