Vi phạm các quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Vi phạm các quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Vi phạm các quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Người uỷ quyền theo pháp luật có vai trò vô cùng cần thiết đối với một doanh nghiệp. Chính vì tầm cần thiết đó mà pháp luật đặt ra những quy định chặt chẽ người uỷ quyền theo pháp luật của doanh nghiệp. Tuy nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng nắm trọn vẹn các quy định liên quan đến vấn đề này dẫn đến sự vi phạm. Vậy Vi phạm các quy định về người uỷ quyền theo pháp luật của doanh nghiệp được quy định thế nào? Mời bạn đọc cùng Luật LVN Group đi nghiên cứu ở nội dung trình bày này !!

 

Vi phạm các quy định về người uỷ quyền theo pháp luật của doanh nghiệp

1. Quy định về người uỷ quyền theo pháp luật của doanh nghiệp

Điều 12 Luật doanh nghiệp 2020 quy định, Người uỷ quyền theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân uỷ quyền cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, uỷ quyền cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền, nghĩa vụ khác theo hướng dẫn của pháp luật.

Chức danh của người uỷ quyền theo pháp luật của công ty có thể là Giám đốc, Tổng Giám đốc, Phó Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty,….

Đối với công ty TNHH 1 thành viên mà chủ sở hữu là tổ chức thì công ty phải có ít nhất một người uỷ quyền theo pháp luật là người giữ một trong các chức danh là Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp Điều lệ công ty không quy định thì Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty là người uỷ quyền theo pháp luật của công ty.

Đối với công ty TNHH 2 thành viên trở lên thì công ty phải có ít nhất một người uỷ quyền theo pháp luật là người giữ một trong các chức danh là Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp Điều lệ công ty không quy định thì Chủ tịch Hội đồng thành viên là người uỷ quyền theo pháp luật của công ty.

Đối với công ty cổ phần, trường hợp công ty chỉ có một người uỷ quyền theo pháp luật thì Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người uỷ quyền theo pháp luật của công ty. Trường hợp Điều lệ không có quy định thì Chủ tịch Hội đồng quản trị là người uỷ quyền theo pháp luật của công ty. Trường hợp công ty có hơn một người uỷ quyền theo pháp luật thì Chủ tịch Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc đương nhiên là người uỷ quyền theo pháp luật của công ty.

Xem thêm nội dung trình bày: Quyền và nghĩa vụ của người đại diên theo pháp luật của doanh nghiệp

2. Số lượng người uỷ quyền theo pháp luật của doanh nghiệp 

Cũng giống như Luật Doanh nghiệp 2014, Luật doanh nghiệp 2020 cho phép công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có hơn một người uỷ quyền theo pháp luật.

“2. Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người uỷ quyền theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người uỷ quyền theo pháp luật của doanh nghiệp. Nếu công ty có nhiều hơn một người uỷ quyền theo pháp luật thì Điều lệ công ty quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của từng người uỷ quyền theo pháp luật. Trường hợp việc phân chia quyền, nghĩa vụ của từng người uỷ quyền theo pháp luật chưa được quy định rõ trong Điều lệ công ty thì mỗi người uỷ quyền theo pháp luật của công ty đều là uỷ quyền đủ thẩm quyền của doanh nghiệp trước bên thứ ba; tất cả người uỷ quyền theo pháp luật phải chịu trách nhiệm liên đới đối với tổn hại gây ra cho doanh nghiệp theo hướng dẫn của pháp luật về dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan.

 Quy định này nhằm hướng tới việc tạo điều kiện tối đa cho doanh nghiệp, cho phép doanh nghiệp toàn quyền quyết định số lượng người uỷ quyền theo pháp luật cho mình trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, uỷ quyền cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo hướng dẫn của pháp luật.

Có thể nói, đây là một trong những nội dung thay đổi cơ bản so với Luật Doanh nghiệp năm 2005 (công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần chỉ có duy nhất một người uỷ quyền theo pháp luật). Đứng dưới khía cạnh đảm bảo quyền tự do kinh doanh, đây là một quy định mang tính đột phá trong việc cho doanh nghiệp toàn quyền quyết định số lượng người uỷ quyền theo pháp luật, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể hội nhập nhanh hơn, tận dụng được mọi cơ hội kinh doanh thông qua các uỷ quyền theo pháp luật. Đồng thời, quy định này sẽ góp phần tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp trong trường hợp người uỷ quyền duy nhất của doanh nghiệp bất hợp tác, không thực hiện các yêu cầu của thành viên/cổ đông trong quá trình quản lý điều hành doanh nghiệp trong nội bộ cũng như giao dịch với bên ngoài công ty. Bằng cách có nhiều hơn 1 người uỷ quyền, sự lạm quyền, bất hợp tác như đã nói trên sẽ bị vô hiệu hóa.

Xem thêm nội dung trình bày: Quy định về người uỷ quyền theo ủy quyền trong doanh nghiệp

3. Quy định Về nơi cư trú của người uỷ quyền theo pháp luật

Theo quy định của pháp luật, doanh nghiệp phải đảm bảo luôn có ít nhất một người uỷ quyền theo pháp luật của công ty cư trú tại Việt Nam. Khi chỉ còn lại một người uỷ quyền theo pháp luật cư trú tại Việt Nam thì người này khi xuất cảnh khỏi Việt Nam phải ủy quyền bằng văn bản cho cá nhân khác cư trú tại Việt Nam thực hiện quyền và nghĩa vụ của người uỷ quyền theo pháp luật. Trường hợp này, người uỷ quyền theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền

Hết thời hạn ủy quyền, người uỷ quyền theo pháp luật chưa trở lại Việt Nam và không có ủy quyền khác, thì:

– Người được ủy quyền tiếp tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người uỷ quyền theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân cho đến khi người uỷ quyền theo pháp luật của doanh nghiệp trở lại công tác tại doanh nghiệp;

– Người được ủy quyền tiếp tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người uỷ quyền theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh cho đến khi người uỷ quyền theo pháp luật của công ty trở lại công tác tại công ty hoặc cho đến khi chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị quyết định cử người khác làm người uỷ quyền theo pháp luật của doanh nghiệp.

4. Vi phạm các quy định về người uỷ quyền theo pháp luật của doanh nghiệp

Theo quy định tại Điều 51, Nghị định 122/2021/NĐ-CP:

Các hành vi vi phạm quy định pháp luật về người uỷ quyền theo pháp luật của Doanh nghiệp bao gồm:

– Không có người uỷ quyền theo pháp luật cư trú tại Việt Nam;

– Không ủy quyền bằng văn bản cho người khác làm uỷ quyền hoặc ủy quyền bằng văn bản đã hết hạn nhưng không gia hạn khi người uỷ quyền theo pháp luật duy nhât của doanh nghiệp xuất cảnh khỏi Việt Nam;

– Người uỷ quyền theo ủy quyền không đủ tiêu chuẩn theo hướng dẫn;

Ủy quyền vượt quá số lượng người được ủy quyền tối đa theo hướng dẫn của pháp luật.

Đối với các hành vi này Doanh nghiệp sẽ bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả sau:

– Buộc đăng ký người đang cư trú tại Việt Nam làm người uỷ quyền của doanh nghiệp nếu không có người uỷ quyền theo pháp luật cư trú tại Việt Nam;

– Buộc ủy quyền cho người khác làm uỷ quyền nếu không ủy quyền bằng văn bản cho người khác làm uỷ quyền hoặc ủy quyền bằng văn bản đã hết hạn nhưng không gia hạn khi người uỷ quyền theo pháp luật duy nhất của doanh nghiệp xuất cảnh khỏi Việt Nam;

– Buộc thay đổi người uỷ quyền đáp ứng các tiêu chuẩn theo hướng dẫn nếu người uỷ quyền theo ủy quyền không đủ tiêu chuẩn theo hướng dẫn.

5. Hậu quả của việc vi phạm quyền nghĩa vụ của người uỷ quyền theo pháp luật của doanh nghiệp

Khoản 1 Điều 72 Luật doanh nghiệp 2020 nêu rõ quyền của thành viên và của công ty TNHH được khởi kiện trách nhiệm dân sự của người uỷ quyền theo pháp luật trong các trường hợp vi phạm quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người quản lý vốn được nêu một cách khá rộng, chẳng hạn như khi thực hiện quyền và nghĩa vụ được giao một cách không cẩn trọng hay trái với quy định của pháp luật hay của điều lệ. Đối với công ty cổ phần, Điều 166 Luật doanh nghiệp 2020 quy định có thể khởi kiện trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm liên đới đối với các thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc để yêu cầu hoàn trả lợi ích hoặc bồi thường tổn hại cho công ty hoặc người khác mà không đề cập rõ việc khởi kiện người uỷ quyền theo pháp luật. Tuy vậy, do Điều 13 Luật doanh nghiệp 2020 đặt ra nguyên tắc chung là người uỷ quyền theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm cá nhân đối với những tổn hại cho doanh nghiệp do vi phạm nghĩa vụ của mình nên có thể áp dụng quy định này để khởi kiện người uỷ quyền theo pháp luật của công ty cổ phần trong trường hợp có thêm người uỷ quyền theo pháp luật không phải là Chủ tịch Hội đồng quản trị hay Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc.

Khi công ty gây tổn hại cho một bên thứ ba thì về nguyên tắc phải bồi thường cho bên này dù là trách nhiệm trong hay ngoài hợp đồng. Vì vậy, nếu người uỷ quyền theo pháp luật vi phạm một hay nhiều nghĩa vụ chung của mình mà pháp luật đã quy định và gây tổn hại cho bên thứ ba thì sau khi công ty đã bồi thường cho bên thứ ba này thì có thể khởi kiện yêu cầu người uỷ quyền theo pháp luật hoàn trả số tiền bồi thường đã trả cho bên thứ ba này theo khoản 2 Điều 13 và khoản 2 Điều 12 Luật doanh nghiệp 2020. Thêm vào đó, khi áp dụng các quy định này, ngay cả trong trường hợp công ty bị xử phạt vi phạm hành chính (chẳng hạn do vi phạm pháp luật cạnh tranh, pháp luật quảng cáo…) do lỗi của người uỷ quyền theo pháp luật thì cũng có thể khởi kiện trách nhiệm của người uỷ quyền theo pháp luật. 

Việc truy cứu trách nhiệm của người uỷ quyền theo pháp luật nói riêng và của người quản lý doanh nghiệp nói chung xuất phát từ nguyên tắc quyền hạn đi liền với trách nhiệm. Đây cũng là xu hướng chung của các nền luật tiên tiến cho dù Luật doanh nghiệp 2020 dường như vẫn chỉ dừng lại ở việc trách nhiệm dân sự mà chưa mở rộng ra các hình phạt khác mà công ty có thể sử dụng để tăng cường hơn nữa trách nhiệm của người quản lý.

Trên đây là nội dung phân tích của Luật LVN Group về Vi phạm các quy định về người uỷ quyền theo pháp luật của doanh nghiệp. Hy vọng những chia sẻ này hữu ích đối với bạn đọc. Trong quá trình cân nhắc nội dung trình bày nếu còn bất cứ vấn đề gì câu hỏi bạn vui lòng phản hồi nội dung trình bày hoặc liên hệ trực tiếp tới tổng đài tư vấn của Luật LVN Group theo thông tin phía dưới để được hỗ trợ kịp thời !!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com