Các yếu tố cấu thành tội bạo hành trẻ em [Chi tiết 2023] - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Các yếu tố cấu thành tội bạo hành trẻ em [Chi tiết 2023]

Các yếu tố cấu thành tội bạo hành trẻ em [Chi tiết 2023]

Trẻ em được ví là mầm non của đất nước, được pháp luật ghi nhận là đối tượng yếu thế cần được pháp luật bảo hộ, bảo đảm các điều kiện về vật chất và tinh thần để phát triển hoàn thiện, bảo đảm quyền và lợi ích cho trẻ. Tuy nhiên do khả năng nhận thức chưa trọn vẹn nên không phải lúc nào trẻ em cũng được bảo vệ khỏi các hành vi bạo hành  Qua nội dung trình bày này Luật LVN Group sẽ phân tích rõ các yếu tố cấu thành tội bạo hành trẻ em để mọi người nắm rõ quy định mới nhất của pháp luật hình sự về vấn đề này.

Các yếu tố cấu thành tội bạo hành trẻ em [Chi tiết 2023]

1. Cấu thành tội phạm là gì?

Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu cần và đủ, đặc trưng cho tội phạm cụ thể được quy định trong luật.

Trong đó, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo hướng dẫn của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.

2. Các yếu tố cấu thành tội phạm

Mặc dù mỗi tội phạm có thể khác nhau về tính chất và mức độ thể hiện, nhưng trong tất cả các tội phạm có thể rút ra được bốn yếu tố cấu thành chung nhất mà bất kỳ một tội phạm nào cũng phải có, đó là:

– Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại. Nếu quan hệ xã hội không bị xâm hại thì không có hành vi nguy hiểm cho xã hội và tất yếu không có tội phạm. Do đó, khi đề cập đến tội phạm thì trước tiên cần phải xác định quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ bị xâm hại.

– Mặt khách quan của tội phạm: Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả của hành vi nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện, hoàn cảnh phạm tội… Thông qua biểu hiện bên ngoài ở mặt khách quan của tội phạm có thể đánh giá được tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm. Mặt khách quan của tội phạm bao gồm:

+ Hành vi: Hành vi là dấu hiệu bắt buộc ở tất cả các tội phạm. Hành vi bao gồm hành vi hành động (ví dụ: hành vi của tội giết người, tội cướp tài sản,…) và hành vi không hành động (ví dụ: hành vi của tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng,…)

+ Hậu quả: Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc ở tất cả tội phạm. Ví dụ, tội hiếp dâm thì hậu quả không phải là dấu hiệu định tội, tội vứt bỏ con mới đẻ thì hậu quả là dấu hiệu định tội.

+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm.

– Mặt chủ quan của tội phạm:  Mặt chủ quan của tội phạm là những biểu hiện tâm lý bên trong của tội phạm được phản ánh qua cách thức động cơ, mục đích của tội phạm. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm:

+ Lỗi: Lỗi là dấu hiệu bắt buộc ở tất cả các tội phạm. Lỗi bao gồm:

Lỗi cố ý trực tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;

Lỗi cố ý gián tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

Lỗi vô ý vì quá tự tin: Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.

Lỗi vô ý do cẩu thả: Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

– Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi phạm tội. Người phạm tội (chủ thể của tội phạm) phải là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định mà Bộ luật hình sự quy định đối với mỗi loại tội phạm.

3. Thế nào là bạo hành trẻ em?

Theo Tổ chức Sức khỏe Thế giới WHO, bạo hành trẻ em là tất cả những hành vi đối xử tệ bạc với trẻ em về cả thể chất và tinh thần như đánh đập… dẫn đến những mối nguy hiện tiềm năng hay hiện hữu đối với sức khỏe, nhân phẩm và sự phát triển của trẻ.

Còn tại Việt Nam, khoản 6 Điều 4 Luật Trẻ em 2016 có giải thích tương tự về bạo lực trẻ em là hành vi hành hạ, ngược đãi, đánh đập; xâm hại thân thể, sức khỏe; lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm; cô lập, xua đuổi và các hành vi cố ý khác gây tổn hại về thể chất, tinh thần của trẻ em.

Dựa trên các căn cứ trên, có thể hiểu bạo hành hay bạo lực trẻ em là các hành vi gây tổn hại về cả thể chất lẫn tinh thần đối với trẻ em. Trong đó:

– Bạo lực thể chất là hành vi sử dụng sức mạnh thể chất với mục đích gây thương vong, tổn hại đến sức khỏe của người khác.

Ví dụ: Đánh, trói hoặc có hành động khác gây tổn thương cơ thể.

– Bạo lực tinh thần còn được gọi là bạo lực tình cảm, bạo lực tâm lý. Hành vi bạo lực tinh thần bao gồm: Chửi mắng, hạ nhục với những lời lẽ thô thiển, nặng nề; Gây áp lực thường xuyên về tâm lý…

Những hành vi này mặc dù không tác động trực tiếp đến sức khỏe về mặt thể chất nhưng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến tinh thần và sự phát triển tâm lý của trẻ em.

4. Các yếu tố cấu thành tội bạo hành trẻ em

4.1. Khách thể

Với tội bạo hành trẻ em, quan hệ được Luật hình sự bảo vệ ở đây là quan hệ nhân thân, cụ thể là quyền được bảo vệ về nhân phẩm, danh dự, sức khỏe, sự an toàn của trẻ em bị tội phạm xâm hại đã gây ra tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại.

4.2. Mặt khách quan

Mặt khách quan là những biểu hiện bên ngoài tội phạm bao gồm các biểu hiện sau đây:

– Hành vi gây nguy hiểm cho xã hội: Hành vi bạo hành trẻ em.

– Hậu quả tác động: Ảnh hưởng tâm sinh lý, sự phát triển thể chất và tinh thần đối với trẻ em; tạo ra ác ảm, mặc cảm khi lớn lên; xa lánh với gia đình, bạn bè, xã hội. Dễ dẫn đến các bệnh trầm cảm, tự kỷ, thậm chí còn dẫn đến việc tử tự.

– Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả tác động: Chính vì hành vi bạo hành trẻ em là nguyên nhân chủ yếu gây nên các hậu quả đã liệt kê ở trên.

– Thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện để người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội của mình.

4.3. Chủ thể

Theo quy định tại Điều 145 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 chủ thể thực hiện hành vi phạm tội là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo hướng dẫn của pháp luật hình sự và chỉ có thể là người, tức thể nhân, cá nhân chứ không bao gồm tổ chức.

4.4. Mặt chủ quan

Mặt chủ quan của cấu thành tội phạm bạo hành trẻ em xét trên ý chí, suy nghĩ của người phạm tội.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com