Điều 93 Luật thi hành án dân sự - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Điều 93 Luật thi hành án dân sự

Điều 93 Luật thi hành án dân sự

Thi hành án dân sự bao gồm các hoạt động như cấp, chuyển giao bản bản án, quyết định dân sự; giả thích bản bản án, quyết định dân sự, tự thi hành án của người phải thi hành án; gửi đơn yêu cầu thi hành án; ra quyết định thi hành án; ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án; ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án; quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án, tổ chức cưỡng chế thi hành án… Luật th hành án dân sự hiện hành có 183 điều. Vậy Điều 93 Luật thi hành án dân sự quy định về vấn đề gì? Hãy cùng LVN Group nghiên cứu nội dung trình bày dưới đây.

Điều 93 Luật thi hành án dân sự

Điều 93 Luật thi hành án dân sự

Điều 93. Kê biên đồ vật bị khóa, đóng gói

Khi kê biên đồ vật đang bị khoá hoặc đóng gói thì Chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án, người đang sử dụng, quản lý đồ vật mở khoá, mở gói; nếu họ không mở hoặc cố tình vắng mặt thì Chấp hành viên tự mình hoặc có thể thuê cá nhân, tổ chức khác mở khóa, phá khóa hoặc mở gói, trong trường hợp này phải có người làm chứng. Người phải thi hành án phải chịu tổn hại do việc mở khóa, phá khóa, mở gói.

Trường hợp cần thiết, sau khi mở khóa, phá khóa, mở gói, Chấp hành viên niêm phong đồ vật và giao bảo quản theo hướng dẫn tại Điều 58 của Luật này.

Việc mở khóa, phá khóa, mở gói hoặc niêm phong phải lập biên bản, có chữ ký của những người tham gia và người làm chứng.

Về điều kiện áp dụng
Theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự thì tiền, tài sản của người phải thi hành án (thuộc loại tài sản được kê biên xử lý) đang do người thứ ba nắm giữ thì Chấp hành viên căn cứ khoản 3 Điều 71 và Điều 91 Luật Thi hành án dân sự và Điều 23 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP (nay là Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020) để thực hiện các bước như đã nêu trên. Tuy nhiên, không có quy định cụ thể điều kiện, thời gian để áp dụng biện pháp này như: Đối với tiền thì khi có căn cứ xác định người thứ ba đang nắm giữ tiền của người phải thi hành án thì Chấp hành viên phải thực hiện ngay việc yêu cầu nộp tiền đó cho đơn vị thi hành án dân sự, kể cả việc người phải thi hành án đang có điều kiện thi hành án khác. Còn đối với tài sản phải đăng ký, quyền sở hữu, sử dụng thì chỉ xử lý khi người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc không đủ để thi hành án. Do đó, có quan điểm cho rằng Chấp hành viên chỉ kê biên xử lý tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba nắm giữ trong trường hợp người phải thi hành án không còn tài sản nào khác để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án.
Ví dụ 1: Bản án thứ nhất tuyên bà A phải thi hành cho ông B số tiền 500.000.000 đồng và lãi chậm thi hành án do đơn vị thi hành án Quận N, tỉnh M tổ chức thi hành. Quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành viên xác minh điều kiện thi hành án của A thì được biết A không có điều kiện để thi hành án. Ông B gửi tới bà A đang được thi hành án của ông C 200.000.000 đồng nhưng bà A chưa làm đơn yêu cầu thi hành án. Trường hợp này, do bà A không còn tài sản nào để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án nên Chấp hành viên phải tiến hành xác minh thông tin của ông B gửi tới, công tác với ông C để yêu cầu ông C thực hiện nghĩa vụ thi hành cho bà A số tiền 200.000.000 đồng, trường hợp ông C không tự nguyện thì Chấp hành viên xác minh điều kiện thi hành án của ông C để thi hành cho bà A.
Bên cạnh đó, có quan điểm cho rằng khi phát hiện người thứ ba đang nắm giữ tài sản của người phải thi hành án thì Chấp hành viên phải áp dụng ngay các biện pháp yêu cầu người thứ ba giao nộp, kê biên xử lý theo hướng dẫn. Nhưng việc áp dụng này có thể dẫn đến khiếu nại, tố cáo của người thứ ba vì cho rằng người phải thi hành án đang có điều kiện thi hành nhưng đơn vị thi hành án lại xử lý tài sản của người thứ ba là chưa phù hợp với thực tiễn, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Ví dụ 2: Cũng như ví dụ nêu trên, nhưng trong trường hợp này bà A có điều kiện thi hành án là đất và nhà cấp 4 (nơi bà A đang cư trú). Tuy nhiên, do bà A đang được thi hành là tiền từ bản án khác nên phải được ưu tiên xử lý để bảo đảm nhà ở duy nhất là tài sản xử lý cuối cùng. Tuy nhiên, trường hợp này bản án giữa bà A và ông C chưa được đơn vị THADS thụ lý giải quyết nên ông C chống đối không thực hiện các yêu cầu của đơn vị THADS vì ông cho rằng bà A còn có tài sản là nhà đất đang ở nhưng đơn vị THADS không xử lý.
Vì vậy, đây cũng là một trong những khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng quy định pháp luật của Chấp hành viên, cần có quy định cụ thể về điều kiện áp dụng quy định xử lý tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba nắm giữ để có cơ chế bảo vệ Chấp hành viên khi thực hiện nhiệm vụ.

Thủ tục thực hiện việc kê biên tài sản:

Căn cứ theo hướng dẫn của pháp luật thì việc thực hiện kê biên tài sản cần tuân thủ các nguyên tắc kê biên tài sản trong thi hành án dân sự được nêu trên.

Trước khi thực hiện việc kê biên tài sản là bất động sản thì trong ít nhất là ba ngày công tác, Chấp hành viên phải thực hiện việc thông báo cho uỷ quyền chính quyền cấp xã hoặc uỷ quyền tổ dân phố nơi tổ chức cưỡng chế, đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, tài sản kê biên, trừ trường hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án.

Đối với trường hợp khi đương sự vắng mặt thì có thể uỷ quyền cho người khác thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình. Trong trường hợp đã được thông báo hợp lệ mà đương sự hoặc người được ủy quyền vắng mặt thì Chấp hành viên vẫn phải tiếp tục tiến hành việc kê biên, nhưng cần phải mời người làm chứng và ghi rõ vào nội dung biên bản kê biên. Trong trường hợp chấp hành viên không mời được người làm chứng thì Chấp hành viên vẫn tiến hành việc kê biên nhưng phải ghi rõ vào nội dung biên bản kê biên.

Khi kê biên đồ vật, nhà ở, công trình kiến trúc nếu vắng mặt người phải thi hành án hoặc người đang quản lý, sử dụng tài sản đó mà phải mở khóa, phá khóa, mở gói thì Chấp hành viên thực hiện theo hướng dẫn tại Điều 93 của Luật này.

Việc kê biên tài sản phải lập biên bản. Biên bản phải ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm kê biên, họ, tên Chấp hành viên, đương sự hoặc người được ủy quyền, người lập biên bản, người làm chứng và người có liên quan đến tài sản; diễn biến của việc kê biên; mô tả tình trạng từng tài sản, yêu cầu của đương sự và ý kiến của người làm chứng.

Biên bản kê biên có chữ ký của đương sự hoặc người được ủy quyền, người làm chứng, uỷ quyền chính quyền cấp xã hoặc uỷ quyền tổ dân phố nơi tổ chức cưỡng chế, Chấp hành viên và người lập biên bản.

Trên đây, LVN Group đã giúp bạn nghiên cứu về Điều 93 Luật Thi hành án dân sự. Trong quá trình nghiên cứu, nếu có câu hỏi câu hỏi xin vui lòng liên hệ website của Công ty Luật LVN Group để được trả lời !

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com