Phân tích Khái niệm hợp đồng trong tư pháp quốc tế - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Phân tích Khái niệm hợp đồng trong tư pháp quốc tế

Phân tích Khái niệm hợp đồng trong tư pháp quốc tế

Xung đột pháp luật là sự kiện hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài (Quan hệ tư pháp quốc tế). Vậy Phân tích Khái niệm hợp đồng trong tư pháp quốc tế thế nào? Hãy cùng LVN Group nghiên cứu qua nội dung trình bày dưới đây!

Phân tích Khái niệm hợp đồng trong tư pháp quốc tế

1. Hợp đồng trong tư pháp quốc tế

Hợp đồng trong tư pháp quốc tế là hợp đồng dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài. Theo Điều 663 BLDS 2015 hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài “thuộc một trong các trường hợp sau đây:

Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài;

Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài;

Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài”.

2. Đặc điểm hợp đồng trong tư pháp quốc tế

-Có ít nhất 1 bên chủ thể tham gia quan hệ này là nước ngoài. Chủ thể nước ngoài có thể là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài, nhà nước nước ngoài.

-Đối tượng của quan hệ này liên quan đến tài sản, công việc ở nước ngoài.

-Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ này xảy ra ở nước ngoài.

3. Các cách thức hợp đồng trong tư pháp quốc tế

-Hình thức giao kết miệng (bằng lời nói): thường được áp dụng với các trường hợp thỏa thuận thực hiện một công việc với giá trị của hợp đồng không lớn hoặc khi các bên hiểu biết, tin tưởng lẫn nhau, hoặc là các đối tác tin cậy lâu năm hoặc là những hợp đồng sau khi giao kết, thực hiện sẽ chấm dứt (mua bán ngoài chợ, cho vay tiền).

-Hình thức giao kết bằng hành vi cụ thể: trường hợp bên mua và bên bán thỏa thuận nhau nếu bên bán gửi thư báo giá mà bên kia không trả lời tức là đã chấp nhận mua hàng theo giá được chào.

-Hình thức bằng văn bản (viết): các bên giao kết hợp đồng thống nhất về quyền và nghĩa vụ hợp đồng bằng văn bản. Các bên thỏa thuận với nhau về những nội dung chính mà đã cam kết và người uỷ quyền của các bên phải ký hợp đồng.

4. Xung đột pháp luật về hợp đồng trong tư pháp quốc tế là gì ?

Xung đột pháp luật về hợp đồng trong tư pháp quốc tế là sự kiện có hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Vấn đề đặt ra là áp dụng pháp luật nước nào để xác định tính hợp pháp của hợp đồng đó.

Việc xác định tính hợp pháp của hợp đồng được dựa trên nhiều yếu tố. Trước tiên, việc xác định tính hợp pháp của hợp đồng được căn cứ vào việc tuân thủ của các bên chủ thể đối với các nguyên tắc chung trong giao kết và thực hiện hợp đồng.

Ví dụ, các nguyên tắc buộc các bên phải tuân thủ như: Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội; nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực (Điều 389 Bộ luật dân sự năm 2005) trong giao kết và thực hiện hợp đồng. Nội dung mang tính nguyên tắc này được quy định tại Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015… Cùng với sự tuân thủ các nguyên tắc chung của hợp đồng như đã đề cập trên đây, tính hợp pháp của hợp đồng còn được xem xét dưới ba góc độ. Đó là cách thức của hợp đồng, nội dung của hợp đồng và năng lực giao kết hợp đồng của các bên chủ thể.

Về cách thức hợp đồng trong tư pháp quốc tế. Hình thức của hợp đồng được hiểu là cách thức ghi nhận, lưu trữ, truyền tải nội dung hợp đồng, hay cách thức hợp đồng chính là cách thể hiện, chứa đựng các điều khoản do các bên chủ thể thoả thuận. Trên thực tiễn, sự thoả thuận của các bên có thể được thể hiện dưới nhiều hợp đồng sẽ vô hiệu nếu hợp đồng đó được giao kết bởi một hoặc cả hai bên chủ thể không đủ điều kiện giao kết theo hướng dẫn của pháp luật. Vì vậy, chỉ có những chủ thể có đủ điều kiện theo hướng dẫn của pháp luật mới được có thể tham gia quan hệ hợp đồng nhất định. Trong tư pháp quốc tế, sự kiện xung đột pháp luật trong việc xác định năng lực của các chủ thể đối với giao kết hợp đồng có yếu tố nước ngoài thường xảy ra.

5. Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng theo hướng dẫn của pháp luật Việt Nam

5.1 Cách hiểu của Việt Nam về cách thức hợp đồng

Khoản 7 Điều 683 Bộ luật dân sự 2015 của Việt Nam quy định:

“Hình thức của hợp đồng được xác định theo pháp luật áp dụng đối với hợp đồng đó. Trường hợp cách thức của hợp đồng không phù hợp với cách thức hợp đồng theo pháp luật áp dụng đối với hợp đồng đó, nhưng phù hợp với cách thức hợp đồng theo pháp luật của nước nơi giao kết hợp đồng hoặc pháp luật Việt Nam thì cách thức hợp đồng đó được công nhận tại Việt Nam”.

Các quyền khác liên quan tới bất động sản, thuê bất động sản hoặc sử dụng bất động sản để thực hiện nghĩa vụ thì sẽ phải tuân theo pháp luật nơi có bất động sản; khoản 5 quy định: Trường hợp pháp luật do các bên lựa chọn trong hợp đồng lao động, hợp đồng tiêu dùng có ảnh hưởng đến quyền lợi tối thiểu của người lao động, người tiêu dùng theo hướng dẫn của pháp luật Việt Nam thì pháp luật Việt Nam được áp dụng để giải quyết; khoản 6 quy định: Các bên có thể thoả thuận thay đổi pháp luật áp dụng đối với hợp đồng nhưng việc thay đổi đó không được ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba được hưởng trước khi thay đổi pháp luật áp dụng, trừ trường hợp người thứ ba đồng ý.

Trường hợp các bên không có thoả thuận về pháp luật áp dụng thì pháp luật của nước có mối quan hệ gắn bó nhất với hợp đồng sẽ được áp dụng.

5.2 Cách thức giải quyết xung đột pháp luật về cách thức hợp đồng

Pháp luật nào là “pháp luật có mối quan hệ gắn bó nhất” với hợp đồng đã được Bộ luật dân sự 2015 quy định tại khoản 2 Điều 683. Theo đó pháp luật của nước có mối quan hệ gắn bó nhất với hợp đồng là pháp luật sau đây:

–       Pháp luật của nước nơi người bán cư trú nếu là cá nhân, hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng mua bán hàng hoá;

–       Pháp luật nước nơi người gửi tới dịch vụ cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng dịch vụ;

–       Pháp luật của nước nơi người nhận quyền cư trú nếu là cá nhân, hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ;

–       Pháp luật của nước nơi người lao động thường xuyên thực hiện công việc đối với hợp đồng lao động. Trong trường hợp người lao động thường xuyên thực hiện công việc tại nhiều nước khác nhau hoặc không xác định được nơi người lao động thường xuyên thực hiện công việc thì pháp luật của nước có mối quan hệ gắn bó nhất với

–       Năng lực hành vi dân sự của cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này;

–       Trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam, năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài đó được xác định theo pháp luật Việt Nam;

–       Việc xác định cá nhân bị mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự tại Việt Nam theo pháp luật Việt Nam.

Từ những quy định trên đây về năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của chủ thể là cá nhân có thể thấy năng lực giao kết hợp đồng của chủ thể là cá nhân sẽ căn cứ vào luật quốc tịch của cá nhân đó. Trong trường hợp hợp đồng được giao kết và được thực hiện tại Việt Nam thì năng lực giao kết hợp đồng của cá nhân sẽ xác định theo pháp luật Việt Nam.

Năng lực pháp luật của chủ thể là pháp nhân được quy định tại Điều 676 Bộ luật dân sự 2015. Theo đó, năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được xác định theo pháp luật của nước mà pháp nhân có quốc tịch (Khoản 2 Điều 676 Bộ luật dân sự 2015). Tuy nhiên, trong trường hợp pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài đó được xác định theo pháp luật Việt Nam (Khoản 3 Điều 676 Bộ luật dân sự 2015).

Theo quy định của Điều 676 Bộ luật dân sự 2015 có tính nguyên tắc trên đây, có thể thấy việc xác định năng lực giao kết hợp đồng của chủ thể là pháp nhân nước ngoài sẽ căn cứ vào luật của nước mà pháp nhân đó có quốc tịch. Trong trường họp pháp nhân nước ngoài xác lập và thực hiện hợp đồng tại Việt Nam thì năng lực giao kết hợp đồng của pháp nhân nước ngoài này sẽ căn cứ vào pháp luật Việt Nam.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp thì năng lực hành vi giao kết hợp đồng của các bên chủ thể còn chịu sự chi phối bởi pháp luật nơi xác lập hợp đồng. Trong các điều ước quốc tế song phương mà Việt Nam đã ký kết còn quy định trong trường hợp các bên xác lập hợp đồng để giải quyết các nhu cầu thông thường của đời sống hàng ngày của mình thì năng lực hành vi của cá nhân sẽ được xác lập trên cơ sở pháp luật nước ký kết nơi hợp đồng được xác lập.

Đối với trường họp giải quyết xung đột pháp luật về năng lực pháp luật của pháp nhân có trụ sở trên lãnh thổ của nước ký kết thì nhìn chung các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết được ghi nhận theo nguyên tắc: Năng lực pháp luật của pháp nhân có trụ sở trên lãnh thổ của nước ký kết được xác định theo pháp luật của nước ký kết đã thành lập pháp nhân đó. Ví dụ, nội dung này được quy định tại Điều 28 HDTTTP Việt Nam – Hunggari; Điều 21 HDTTTP Việt Nam – Ba Lan; Điều 17 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.

Trên đây là Phân tích Khái niệm hợp đồng trong tư pháp quốc tế mà LVN Group muốn giới thiệu đến quý bạn đọc. Hi vọng nội dung trình bày sẽ hỗ trợ và giúp ích cho quý bạn đọc về vấn đề này!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com