Nguyên tắc cơ bản của Luật thi hành án dân sự [2023] - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Nguyên tắc cơ bản của Luật thi hành án dân sự [2023]

Nguyên tắc cơ bản của Luật thi hành án dân sự [2023]

Thi hành án dân sự là hoạt động được thực hiện bởi đơn vị thi hành án dân sự, trong đó, đơn vị thi hành án dân sự sẽ yêu cầu người phải thi hành án và những chủ thể có liên quan thực hiện phải thi hành những bản án, quyết định một phán quyết của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Trong nội dung trình bày này LVN Group sẽ giới thiệu đến bạn đọc Nguyên tắc cơ bản của Luật thi hành án dân sự [2023]

Nguyên tắc cơ bản của Luật thi hành án dân sự [2023]

1. Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định yêu cầu

– Khi giải quyết vụ việc dân sự toà án phải quyết định áp dụng biện pháp cần thiết bảo đảm cho việc thi hành án, phải tuyên bản án, quyết định trọn vẹn, rõ ràng, chính xác tạo thuận lợi cho việc thi hành án.

– Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật phải được đưa ra thi hành. Cá nhân, đơn vị, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định phải chấp hành đúng và trọn vẹn các phán quyết ghi trong các bản án quyết định được đưa ra thi hành. Trong trường hợp người có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định mà không tự nguyện thi hành thì phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết buộc họ thực hiện.

– Toà án, đơn vị, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định phải thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện hiệm vụ đó.

– Mọi đơn vị, tổ chức và cá nhân phải tôn trọng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Các đơn vị, tổ chức và á nhân không được can thiệp trái pháp luật vào quá trình thi.

2. Nguyên tắc bảo đảm quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự xác định

– Người được thi hành án, người phải thi hành án được căn cứ vào bản án, quyết định dân sự có quyền yêu cầu đơn vị thi hành án có thẩm quyền Thi hành án; việc yêu cầu Thi hành án được thực hiện qua việc làm đơn yêu cầu thi hành án gửi đơn vị thi hành án hoặc trực tiếp đến đơn vị thi hành án yêu cầu Thi hành án.

– Để bảo đảm quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự toà án, đơn vị và tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phải cấp cho các đương sự bản án, quyết định trong thời hạn thi hành án dân sự. Trong trường hợp người được thi hành án, người phải thi hành án có đơn hoặc trực tiếp đến đơn vị thi hành án dân sự yêu cầu thi hành án thì đơn vị thi hành án dân sự có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét. Nếu việc yêu cầu thi hành án của đương sự đúng pháp luật thì đơn vị Thi hành án dân sự phải thụ lí, ra quyết định thi hành án và tổ chức thi hành án dân sự theo hướng dẫn của pháp luật.

Pháp luật quy định. Khi cấp cho các đương sự bản án, quyết định các đơn vị, tổ chức này phải giải thích cho các đương sự quyền yêu cầu thi hành án dân sự của họ và thời hiệu yêu cầu

Nguyên tắc bảo đảm quyền yêu câu thi hành án của các đương sự trước đây được quy định tại Điều 5 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Hiện nay, nguyên tắc này được quy định tại Điều 7 Luật thi hành án dân sự và Điều 7a LSDBSLTHADS.

3. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người có quyền, nghĩa vụ liên quan

Quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể được Nhà nước

Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự và người liên quan trước đây được quy định tại Điều 7 Pháp lệnh thi hành án dân sự S năm 1989, Điều 9 Pháp lệnh thi hành án dân sự nam 1993 và Điều 9 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Hiện nay, nguyên tắc này được quy định tại Điều 5 Luật thi hành án dân sự.

4. Nguyên tắc trách nhiệm bồi thường tổn hại trong thi hành án dân sự

Kết quả thi hành án dân sự phụ thuộc rất lởn vào việc đơn vị thi hành án dân sự, các cá nhân, đơn vị và tổ chức liên quan đến việc thi hành án dân sự có thực hiện đúng, trọn vẹn các quyền hạn và nhiệm vụ của họ được không. Vì vậy, việc đề cao trách nhiệm của đơn vị thi hành án dân sự, các cá nhân, đơn vị và tổ chức liên quan đến việc thi hành án dân sự là cần thiết. Từ đó, vấn đề trách nhiệm bồi thường tổn hại trong thi hành án dân sự được quy định là nguyên tắc cơ bản của luật thi hành án dân sự.

Nội dung của nguyên tắc trách nhiệm bồi thường tổn hại trong thi hành án dân sự yêu cầu:

– Cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên, các đương sự và các cá nhân, đơn vị, tổ chức khác liên quan đến việc thi hành án dân sự phải đề cao trách nhiệm trong việc thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của mình theo hướng dẫn của pháp luật về thi hành án dân sự, không được thực hiện các hành vi trái với quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.

– Cơ quan, tổ chức và cá nhân vi phạm quy định của Luật thi hành án dân sự thi phải chịu trách nhiệm về vi phạm đó. Trong trường hợp đơn vị, tổ chức và cá nhân vi phạm quy định của Luật thi hành án dân sự gây tổn hại thì phải bồi thường cho người bị hại theo hướng dẫn của pháp luật. Thuyết phục mà các đương sự tự nguyện thi hành án thì chấp hành viên hướng dẫn để cho các đương sự tự thi hành các quyền, nghĩa vụ của họ theo bản án, quyết định của toà án.

– Trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án sau khi đã được giáo dục, thuyết phục mà không tự nguyện thi hành các nghĩa vụ thi hành án dân sự của họ thì chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án càn thiết được quy định trong Luật thi hành án dân sự để bảo đảm việc thi hành án.

Nguyên tắc kết hợp biện pháp tự nguyện và cưỡng chế thi hành án trước đây được quy định tại Điều 5 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989, Điều 6 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 và Điều 6, Điều 7 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Hiện nay, nguyên tắc này được quy định tại Điều 9 Luật thi hành án dân sự.

5. Nguyên tắc trách nhiệm phối hợp của đơn vị, tổ chức, cả nhân với đơn vị thi hành án dân sự và chấp hành viên

Thi hành án dân sự là hoạt động phức tạp, hiệu quả cùa nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Tuy đơn vị thi hành án dân sự, chấp hành viên được thực hiện quyền lực của Nhà nước để tổ chức thi hành án, giữ vai trò chủ đạo tổ chức thi hành án nhưng trong những trường hợp đương sự chây ỳ, chống đối nếu không có sự phối hợp, giúp đỡ của các đơn vị, tổ chức và cá nhân khác thì việc thi hành án vẫn khó có thể thực hiện có hiệu quả. Trong các mối quan hệ phối hợp thi hành án thì mối quan hệ Igiữa đơn vị thi hành án dân sự với toà án đã ra bản án, quyết định, với lực lượng cảnh sát nhân dân, với chính quyền địa phương nơi người phải thi hành án cư trú hoặc có tài sản liên quan đến việc thi hành án và mối quan hệ giữa đơn vị thi hành án dân sự với đơn vị, tổ chức nơi người phải thi hành án làm

6. Nguyên tắc thoả thuận thi hành án dân sự

Trong giao lưu dân sự, các đương sự có quyền tự do cam kết, thoả thuận xác lập các quyền, nghĩa vụ dân sự phù hợp với pháp luật. Vì vậy, trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự thì đương sự vẫn có quyền tự định đoạt. Thi hành án dân sự là một giai đoạn của quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên trong giai đoạn này các đương sự cũng vẫn có quyền tự định đoạt, trong đó có quyền thoả thuận thi hành án. Thoả thuận thi hành án là nội dung cơ bản của quyền tự định đoạt trong thi hành án của đương sự nên được quy định là nguyên tắc của luật thi hành án dân sự. Nội dung của nguyên tắc này xác định:

– Các đương sự có quyền thoà thuận về việc thi hành án, nếu thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội thì việc thi hành án được thực hiện theo sự thoả thuận của các đương sự được công nhận.

– Việc thoả thuận có thể được thực hiện trước hoặc sau khi yêu cầu đơn vị thi hành án tổ chức thi hành án; nếu thoà thuận sau khi có quyết định thi hành án đương sự có quyền yêu cầu chấp hành viên chứng kiến việc thoà thuận. Xem thêm khoản 3 Điều 1 Nghị định của Chính phủ số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự.

– Trường hợp đương sự không thực hiện đúng thoả thuận thì có quyền yêu cầu đơn vị thi hành án dân sự thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết định.

Nguyên tắc thoả thuận thi hành án lần đầu tiên.

7. Nguyên tắc giảm sát hoạt động Thi hành án dân sự

Hoạt động của đơn vị thi hành án dân sự và các đơn vị nhà nước khác trong tổ chức thi hành án dân sự là hoạt động thực hiện quyền lực của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Hoạt động này chỉ phát huy được tác dụng của nó khi được tiến hành đúng theo hướng dẫn của pháp luật. Vì vậy, để bảo đảm cho hoạt động của các đơn vị này trong thi hành án dân sự tiến hành đúng pháp luật thì phải kiểm tra, kiểm sát và giám sát chúng. Theo quy định tại Điều 8 Hiến pháp năm 2013 thì các đơn vị nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân. Từ đó, bảo đảm quyền giám sát của nhân dân đối với các hoạt động thi hành án dân sự cùa đơn vị thi hành án dân sự và các đơn vị nhà nước khác là vấn đề tất yếu và mang tính nguyên tắc.

Nguyên tắc giám sát hoạt động thi hành án dân sự yêu cầu mọi hoạt động thi hành án dân sự phải được đật dưới sự giám sát của nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với các hoạt động thi hành án dân sự thông qua các đơn vị, tổ chức uỷ quyền cho mình như Quốc hội, hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Do đó, để bảo đảm quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động thi hành án phải bảo đảm cho các đơn vị, tổ chức này thực hiện được quyền theo dõi, kiểm tra các hoạt động thi hành án dân sự của đơn vị thi hành án dân sự và các đơn vị nhà nước khác. Mặt khác, cũng phải bảo đảm quyền của họ trong việc kiến nghị với các đơn vị nhà nước có thẩm quyền xử lí các hành vi, quyết định trái pháp luật trong thi hành án dân sự.

– Kiểm sát hoạt động tổ chức thi hành án của đơn vị thi hành án dân sự và chấp hành viên như việc ra quyết định thi hành án, quyết định uỷ thác thi hành án, quyết định hoãn thi hành án, quyết định tạm đình chỉ thi hành án, quyết định đình chỉ thi hành án, quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án; tiến hành tổ chức thi hành án; việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự.

– Kiểm sát các hoạt động thi hành bản án, quyết định của đương sự, người uỷ quyền cùa đương sự và các cá nhân, đơn vị, tổ chức liên quan đến việc thi hành án dân sự.

– Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của lực lượng cảnh sát nhân dân trong việc bảo vệ cưỡng chế thi hành án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của đơn vị, tổ chức và cá nhân có liên quan đến việc thực hiện yêu cầu, quyết định cưỡng chế thi hành án của chấp hành viên.

– Kiểm sát việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo các hành vi trái pháp luật phát sinh trong thi hành án dân sự của cá nhân, đơn vị có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo. Nguyên tắc kiểm sát hoạt động thi hành án dân sự được quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và khoản 2 Điều 12 Luật thi hành án dân sự. Theo các quy định này, viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tổ chức thi hành án dân sự của đơn vị thi hành án dân sự và chấp hành viên, hoạt động thi hành án dân sự của các đơn vị, tổ chức và cá nhân có liên quan đến việc thi hành án nhằm bảo đảm việc thi hành án kịp thời, trọn vẹn, đúng pháp luật. Khi tiến hành kiểm sát hoạt động thi hành án dân sự, viện kiểm sát được thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn quy định tại khoản 2 Điều 12 Luật thi hành án dân sự và Điều 28 Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014.

Trên đây là nội dung trình bày Nguyên tắc cơ bản của Luật thi hành án dân sự [2023] Công ty Luật LVN Group tự hào là đơn vị hàng đầu hỗ trợ mọi vấn đề liên quan đến pháp lý, tư vấn pháp luật, thủ tục giấy tờ cho khách hàng là cá nhân và doanh nghiệp trên Toàn quốc với hệ thống văn phòng tại các thành phố lớn và đội ngũ cộng tác viên trên khắp các tỉnh thành. Liên hệ với chúng tôi ngay hôm nay để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com