Người lao động, người làm công, người làm thuê, người thợ hay nhân công là người làm công ăn lương, đóng góp lao động và chuyên môn để nỗ lực tạo ra sản phẩm cho người sử dụng lao động và thường được thuê với hợp đồng công tác (giao kèo) để thực hiện các nhiệm vụ cụ thể được đóng gói vào một công việc hay chức năng. Hôm nay LVN Group sẽ giới thiệu đến các bạn nội dung về Chủ thể quan hệ pháp luật lao động (Cập nhật 2023) Cùng LVN Group nghiên cứu ngay sau đây bạn ! !
Chủ thể quan hệ pháp luật lao động (Cập nhật 2023)
1. Quan hệ lao động là gì ?
Căn cứ theo hướng dẫn chi tiết tại khoản 5 Điều 3 Bộ luật Lao động 2019, quan hệ lao động là quan hệ xã hội phát sinh trong việc thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa người lao động, người sử dụng lao động, các tổ chức uỷ quyền của các bên, đơn vị nhà nước có thẩm quyền. Quan hệ lao động bao gồm:
– Quan hệ lao động cá nhân.
– Quan hệ lao động tập thể.
2. Xây dựng quan hệ lao động là thế nào ?
Việc xây dựng quan hệ lao động được quy định tại Điều 7 Bộ luật Lao động 2019 như sau:
– Quan hệ lao động được xác lập qua đối thoại, thương lượng, thỏa thuận theo nguyên tắc tự nguyện, thiện chí, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau.
– Người sử dụng lao động, tổ chức uỷ quyền người sử dụng lao động và người lao động, tổ chức uỷ quyền người lao động xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định với sự hỗ trợ của đơn vị nhà nước có thẩm quyền.
– Công đoàn tham gia cùng với đơn vị nhà nước có thẩm quyền hỗ trợ xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định; giám sát việc thi hành quy định của pháp luật về lao động; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động.
– Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và các tổ chức uỷ quyền của người sử dụng lao động khác được thành lập theo hướng dẫn của pháp luật có vai
3. Chủ thể là gì ?
Chủ thể là cá nhân, tổ chức tham gia vào một quan hệ xã hội nhất định. Trong mỗi mối quan hệ xã hội thì chủ thể có những tên khác nhau nhưng điểm chung là đều tồn tại hiện hữu. Chủ thể tồn tại hiện hữu có nghĩa là có trên thực tiễn chủ thể có thể được nhận diện hoặc nhận biết được thông qua các thông tin của chủ thể đó.
4. Chủ thể quan hệ pháp luật lao động
Chủ thể của quan hệ pháp luật lao động cá nhân là người lao động và người sử dụng lao động nhưng không phải cá nhân nào cũng có thể trở thành người lao động và không phải cá nhân, tổ chức nào cũng được quyền sử dụng lao động. Để trở thành chủ thể trong quan hệ pháp luật lao động cá nhân, người lao động và người sử dụng lao động phải có năng lực chủ thể theo hướng dẫn của pháp luật. Đe xác định năng lực chủ thể phải xem xét hai yếu tố cần thiết là năng lực pháp luật lao động và năng lực hành vi lao động.
5. Quan hệ lao động bao gồm những chủ thể nào ?
a. Người lao động
Tự do việc làm là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật lao động đã được hiến định và gắn liền với quyền con người (Khoản 1 Điều 35 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền công tác, lựa chọn nghê nghiệp và nơi công tác”. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc công dân đương nhiên có việc làm mà cần phải thoả mãn các yêu cầu của pháp luật. Tập hợp các quy định của pháp luật để công dân tham gia quan hệ pháp luật lao động cá nhân là điều kiện chủ thể để công dân tham gia quan hệ với tư cách chủ thể là người lao động trong quan hệ.
Người lao động trong quan hệ pháp luật lao động cá nhân trước hết phải là cá nhân vì chỉ cá nhân mới có thể ưở thành người bán sức lao động trong quan hệ mua bán hàng hoá sức lao động. Mục đích của việc tham gia quan hệ lao động của người lao động là để bán sức lao động, kiếm tiền nhằm thoả mãn các nhu cầu khác nhau. Vì vậy, người lao động phải là người có sức lao động và có quyền định đoạt nó với tư cách là một hàng hoá.
Cá nhân tham gia quan hệ lao động cá nhân với tư cách là người lao động có thể là người Việt Nam và không có quốc tịch Việt Nam (bao gồm người có quốc tịch của một nước khác hoặc người không mang quốc tịch nào ở thời gian công tác).
Người lao động tham gia quan hệ lao động cá nhân phải có năng lực pháp luật lao động và năng lực hành vi lao động. Trong luật lao động, năng lực pháp luật lao động của công dân là khả năng mà pháp luật quy định hay ghi nhận cho công dân có quyền lao động, được hưởng quyền và có thể tự mình thực hiện nghĩa vụ của người lao động. Năng lực hành vi lao động của công dân là khả năng bằng chính hành vi của bản thân họ tham gia trực tiếp vào quan hệ pháp luật lao động cá nhân, tự hoàn thành mọi nghĩa vụ, tạo ra và thực hiện quyền, hưởng mọi quyền lợi phát sinh từ quan hệ đó.
Người tham gia quan hệ pháp luật lao động cá nhân với tư cách là người lao động có thể có năng lực chủ thể trọn vẹn hoặc năng lực chủ thể hạn chế trong những trường hợp đặc biệt.
Người lao động có năng lực chủ thể trọn vẹn phẳi đảm bảo những điều kiện về thể lực, trí lực, có khả năng lao động. Trong quan hệ pháp luật lao động cá nhân, năng lực chủ thể của người lao động phát sinh cùng một lúc khi công dân đạt đến một độ tuổi nhất định. Khoản 1 Điều 3 BLLĐ năm 2019 quy định: “Người lao động là người công tác cho người sử dụng lao động theo thoả thuận… Độ tuổi tối thiểu của người lao động là đủ 15 tuổi… ”.
b. Người sử dụng lao động
Người sử dụng lao động là một bên của quan hệ lao động cá nhân, là chủ sở hữu đối với tư liệu sản xuất và có nhu cầu sử dụng sức lao động. Vì là chủ sở hữu đối với vật chất, tài sản nên người sử dụng lao động không nhất thiết phải là một cá nhân. Theo quy định của BLLĐ tại Khoản 2 Điều 3 BLLĐ năm 2019 thì: “Người sử dụng lao động là doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhăn có thuê mướn, sử dụng lao động người lao động công tác cho mình theo thoả thuận; trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân thì phải có năng lực hành vỉ dân sự trọn vẹn ”. Trong thực tiễn có nhiều chủ thể là người sử dụng lao động và vì thế cũng có những điều kiện chủ thể khác nhau phù hợp với từng nhóm chủ thể này, cụ thể là:
– Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế;
– Cơ quan nhà nước (gồm cả các đơn vị hành pháp, đơn vị tư pháp), đơn vị hành chính-sự nghiệp;
– Cơ quan dân cử;
– Tổ chóc chính trị, chính trị-xã hội (bao gồm tất cả các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội mang tính quần chúng, tổ chức xã hội – nghề nghiệp);
– Hợp tác xã (nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp, diêm nghiệp…);
– Cá nhân và hộ gia đình;
– Cá nhân, đơn vị, tổ chức nước ngoài và quốc tế trên lãnh thổ Việt Nam.
Trong số các đơn vị sử dụng lao động, doanh nghiệp là người sử dụng lao động cần thiết nhất bởi đây là nơi thu hút đông đảo lực lượng lao động trong xã hội. Các quan hệ lao động được thiết lập trong doanh nghiệp chủ yếu trên cơ sở hợp đồng lao động giữa một bên là người uỷ quyền cho doanh nghiệp với một bên là người lao động. Do đó, khi xem xét năng lực chủ thể của người sử dụng lao động là doanh nghiệp, ngoài việc xác định tư cách pháp nhân, đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp cần lưu ý thêm điều kiện chủ thể của người uỷ quyền cho doanh nghiệp trong vai trò người sử dụng lao động.
Để có thể tham ,gia quan hệ pháp luật lao động cá nhân một cách hợp pháp, người sử dụng lao động cũng phải có năng lực chủ thể trọn vẹn. Số lượng chủ thể tham gia quan hệ với tư cách là người sử dụng lao động rất đa dạng về quy mô, tính chất, chức năng, sở hữu… Do đó, từng nhóm đơn vị, tổ chức, cá nhân sử dụng lao động có các điều kiện luật định khác nhau.
– Đối với người sử dụng lao động là cá nhân: Theo quy định của pháp luật lao động hiện hành, người sử dụng lao động nếu là cá nhân phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đù (theo Khoản 2 Điều 3 BLLĐ năm 2019). Mặt khác, người sử dụng lao động là cá nhân còn phải có thêm những điều kiện thực tiễn khác để đảm bảo thực hiện quan hệ lao động như: có khả năng trả lương cho người lao động, khả năng đảm bảo các điều kiện công tác…
– Người sử dựng lao động là tổ chức hoặc doanh nghiệp: Khác với cá nhân sử dụng lao động, năng lực pháp luật của một tổ chức hoặc một doanh nghiệp sử dụng lao động không dựa trên độ tuổi. Đối với tổ chức, doanh nghiệp, tư cách pháp lí của nó dựa trên những yếu tố khác theo pháp luật.
Trừ doanh nghiệp tư nhân (theo Theo quy định tại khoản 1 Điều 183 Luật Doanh nghiệp năm 2014: “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp tư nhân không có tài sản độc lập và không có tư cách pháp nhân), các tổ chức và doanh nghiệp khi tham gia quan hệ pháp luật về sử dụng lao động, để trở thành người sử dụng lao động có năng lực pháp luật, đòi hỏi phải có tư cách pháp nhân. Những điều kiện để được công nhận là pháp nhân bao gồm (Khoản 1 Điêu 74 BLDS năm 2015):
– Được thành lập theo hướng dẫn của BLDS năm 2015, luật khác có liên quan;
– Có cơ cấu tổ chức theo hướng dẫn tại Điều 83 BLDS năm 2015;
– Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình;
– Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Đối với người sử dụng lao động là cá nhân hoặc doanh nghiệp tư nhân, người sử dụng lao động phải trực tiếp kí hợp đồng lao động, không được phép uỷ quyền bằng văn bản cho người khác. Những trường hợp khác, người có đủ thẩm quyền uỷ quyền cho người sử dụng lao động là pháp nhân kí các hợp đồng lao động để xác lập các quan hệ pháp luật về sử dụng lao động sẽ bao gồm:
– Người uỷ quyền theo pháp luật của pháp nhân (Ví dụ:giám đốc công ti trách nhiệm hữu hạn, thủ trưởng đơn vị nhà nước kí hợp đồng lao động với người không phải là công chức trong biên • chế của đơn vị đó…);
– Người uỷ quyền theo điều lệ của doanh nghiệp;
– Người được người có đủ thẩm quyền kí hợp đồng lao động trong pháp nhân đó uỷ quyền lại bằng văn bản.
Trên đây là những nội dung về Chủ thể quan hệ pháp luật lao động (Cập nhật 2023) do Công ty Luật LVN Group gửi tới kiến thức đến khác hàng. LVN Group hy vọng nội dung trình bày này sẽ là nguồn thông tin hữu ích gửi đến quý bạn đọc !