Quy định về bầu cử 5 năm 1 lần

Quy định về bầu cử 5 năm 1 lần thế nào? Hãy cùng Luật LVN Group nghiên cứu chi tiết thông qua nội dung trình bày sau !!

Quy định về bầu cử 5 năm 1 lần

1. Bầu cử là gì?

Bầu là cách lựa chọn người nắm giữ một chức vụ theo chế độ tập thể. Bầu cử là việc lựa chọn người nắm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước được thực hiện bởi người dân thông qua con đường bỏ phiếu tập thể

Bầu cử là một hoạt động xã hội của con người mà theo đó một nhóm người bầu ra một hay nhiều người để uỷ quyền cho các nhóm người xác định đó để thực hiện chức năng xã hội cụ thể.

Mặt khác, khái niệm bầu cử còn được dùng rất nhiều thay cho “quyền bầu cử”.

Bầu cử ở Việt Nam là quá trình các cử tri của quốc gia này đưa ra quyết định theo các cách thức mà pháp luật quy định để chọn ra các đại biểu uỷ quyền cho mình nắm giữ các chức vụ trong đơn vị dân cử của chính quyền ở trung ương và địa phương trong phạm vi lãnh thổ. Việc bầu cử ở Việt Nam gồm bầu cử Quốc hội (ở Trung ương) và bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp (ở địa phương).

2. Quy định về bầu cử 5 năm 1 lần

Thông thường, các cuộc bầu cử được tiến hành khi các đơn vị dân cử (hay đơn vị quyền lực nhà nước) hết nhiệm kỳ thì sẽ được ấn định vào vị trí công tác khác. Còn những người trúng cử sau này cũng được ấn định từ trước từ Uy ban bầu cử. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, nhiệm kỳ của Quốc hội mỗi khóa là năm năm, tương tự, năm năm cũng là nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân các cấp chính vì vậy cứ năm năm một lần, ở Việt Nam lại định kỳ tiến hành bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

3. Quyền bầu cử, ứng cử

Quyền bầu cử và ứng cử vào đơn vị quyền lực Nhà nước cao nhất là một trong những quyền cơ bản về chính trị của công dân. Pháp luật hiện hành đã quy định công dân có quyền bầu cử, có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Theo đó, công dân Việt Nam đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội. Những công dân này không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú đều được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu cử.

Mặc dù vậy, cũng có những công dân đủ các điều kiện trên nhưng không được ghi tên vào danh sách cử tri là các trường hợp người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật hay người đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc người đang bị tạm giam và người mất năng lực hành vi dân sự. Những quy định kiểu như vậy cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.

Mặt khác, những người sau đây cũng không được tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội gồm: Những người không được tham gia bầu cử thì đương nhiên không được ứng cử, người đang bị khởi tố về hình sự, người đang phải chấp hành bản án, quyết định hình sự của Toà án hoặc đã chấp hành xong nhưng chưa được xóa án tích hay là những người đang chấp hành quyết định xử lý hành chính khác.

4. Ấn định ngày bầu cử thế nào?

Để tiến hành một cuộc bầu cử, trước hết phải xác định cho được ngày bầu cử (ngày bỏ phiếu). Hiến pháp và Luật bầu cử của đa số các nước chỉ quy định thời hạn chung cho các cuộc bầu cử, còn ngày bầu cử cụ thể do một quan chức hay đơn vị có thẩm quyền xác định.

Ở Việt Nam, ngày bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân do Ủy ban thường vụ Quốc hội ấn định và công bố chậm nhất là 105 ngày trước ngày bầu cử. Điều 85 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 quy định: Hai tháng trước khi Quốc hội hoặc hội đồng nhân dân hết nhiệm kỳ, Quốc hội khóa mới phải được bầu xong.

Ngày bầu cử được ấn định phải là ngày chủ nhật để mọi người có điều kiện tham gia một cách trọn vẹn.

Điều 54 Luật bầu cử Quốc hội quy định: Việc bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội được tiến hành cùng một ngày trong cả nước. Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật, do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ấn định và công bố chậm nhất là một trăm lẻ năm ngày trước ngày bầu cử.

Việc Ủy ban thường vụ Quốc hội ấn định ngày bầu cử là công đoạn đầu tiên của công việc tiến hành một cuộc bầu cử. Bắt đầu từ đây, mọi việc có liên quan đến việc bỏ phiếu và xác định kết quả bầu cử bắt đầu được tiến hành.

Trước đây, ở Việt Nam, ngày bầu cử được ấn định chậm nhất là 60 ngày trước ngày bầu cử nhưng thời hạn này là quá ngắn là cho công tác chuẩn bị bầu cử của các đơn vị tổ chức vốn yếu kém về năng lực lại tỏ ra bị động, lúng túng. Pháp luật hiện hành đã nâng thời gian chuẩn bị bầu cử dài hơn bằng cách kéo dài thời gian chậm nhất phải ấn định từ 60 – 90 ngày, kể cả cuộc bầu cử Quốc hội lẫn các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân.

Trong trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn thì Ban bầu cử phải báo cáo với Uỷ ban bầu cử để đề nghị Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định.

Trước cuộc bỏ phiếu 10 ngày, Tổ bầu cử phải thường xuyên thông báo cho cử tri biết ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu, thời gian bỏ phiếu.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com