Điều 4 Luật Quốc tịch Việt Nam [Chi tiết 2023] - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Điều 4 Luật Quốc tịch Việt Nam [Chi tiết 2023]

Điều 4 Luật Quốc tịch Việt Nam [Chi tiết 2023]

Luật quốc tịch Việt Nam là đạo luật với hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh và quy định về các vấn đề hưởng và mất quốc tịch Việt Nam, thay đổi quốc tịch Việt Nam của người chưa thành niên và của con nuôi; xác định trình tự, thủ tục, thẩm quyền của các đơn vị nhà nước. Điều 4 Luật quốc tịch Việt Nam quy định Nguyên tắc xác định quốc tịch. Hãy cùng LVN Group nghiên cứu Điều 4 Luật quốc tịch Việt Nam qua nội dung trình bày dưới đây!

Điều 4 Luật Quốc tịch Việt Nam [Chi tiết 2023]

1. Quốc tịch Việt Nam là gì?

Quốc tịch là gì?

Khi nhắc đến quốc tịch, ta thường nhắc đến tư cách công dân của nhà nước độc lập, có chủ quyền. Quốc tịch của mỗi cá nhân có sự ổn định, không thay đổi dù bạn ở đâu, ở quốc gia nào trên thế giới. Và quốc tịch thường gắn liền với mỗi cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết đi, trừ những trường hợp đặc biệt.

Từ đó có thể hiểu Quốc tịch là mối quan hệ pháp lý-  chính trị có tính chất lâu dài, bền vững, ổn định cao cả về không gian, thời gian giữa cá nhân cụ thể và một nhà nước nhất định.

Khái niệm quốc tịch Việt Nam

Từ khái niệm quốc tịch trên, thì quốc tịch Việt Nam được hiểu là mối quan hệ pháp lý- chính trị có tính chất lâu dài, bền vững, ổn định cao về không gian, thời gian giữa cá nhân và nhà nước Việt Nam.

Tại Điều 1 Luật Quốc tịch năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định: “Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam”. Từ quy định này thì quốc tịch thể hiện quan hệ pháp lý giữa công dân Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thể hiện quyền, nghĩa vụ giữa hai chủ thể này.

Quốc tịch Việt Nam trong tiếng Anh là “Vietnamese nationality”.

2. Điều 4 Luật quốc tịch Việt Nam

Điều 4. Nguyên tắc quốc tịch

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.

Theo Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác. Vậy, với quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam thì nước ta tuân theo nguyên tắc một quốc tịch “mềm dẻo”.

Nguyên tắc một quốc tịch mềm dẻo

Có thể khẳng định rằng nguyên tắc cơ bản thể hiện trong Chương I của Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 là nguyên tắc một quốc tịch mềm dẻo.

Nếu Điều 3 Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 có tên gọi là “nguyên tắc một quốc tịch” và Điều này quy định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận Công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam ” thì “nguyên tắc quốc tịch” là tên gọi của Điều 4 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008. Nguyên tắc quốc tịch được xác định lại trong Luật năm 2008 là: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác Vì vậy có thể thấy Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 được xây dựng trên nguyên tắc một quốc tịch triệt để còn Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 được xây dựng trên nguyên tắc một quốc tịch mềm dẻo.

Nguyên tắc một quốc tịch mềm dẻo thể hiện ở chỗ một mặt Luật xác định ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch Việt Nam, mỗi thành viên của các dân tộc Việt Nam đều bình đẳng về quyền có quốc tịch Việt Nam, Nhà nước thừa nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, tuy nhiên Nhà nước cũng thừa nhận tình trạng một số người có hai hoặc nhiều quốc tịch (Dual or Plural Nationality).

Do công nhận thực hạng một số công dân có hai hoặc nhiều quốc tịch nên Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã bổ sung một điều quy định về việc giải quyết vấn đề phát sinh từ tình trạng công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài. Theo quy định tại Điều 12, vấn đề phát sinh từ tình trạng công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài được giải quyết theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trường hợp không có điều ước quốc tế thi được giải quyết theo tập cửa hàng và thông lệ quốc tế. Điều 12 cũng xác định nhiệm vụ của Chính phủ là kí kết hoặc đề xuất việc kí kết, quyết định gia nhập điều ước quốc tế để giải quyết vấn đề phát sinh từ tình trạng công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài. Đe giải quyết các xung đột pháp luật trong lĩnh vực quốc tịch, nhiều quốc gia đã kí kết một số điều ước quốc tế đa phương về vấn đề quốc tịch như Công ước La Haye năm 1930 về một số vấn đề liên quan tới xung đột quốc tịch, Công ước năm 1963 về việc giảm các trường hợp nhiều quốc tịch và về nghĩa vụ quân sự trong trường hợp nhiều quốc tịch, Công ước châu Âu năm 1997 về quốc tịch. Trong trường hợp nhiều quốc tịch, Công ước La Haye năm 1930 đã xác định nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu. Điều 5 của Công ước La Haye quy định: “Tại một nước thứ ba, một người có nhiều quốc tịch sẽ được coi như chỉ có một quốc tịch. Nước thứ ba sẽ chỉ công nhận duy nhất một trong sổ những quốc tịch mà người đỏ có hoặc công nhận quốc tịch của nước mà người đó thường trú và cư trú chủ yếu hoặc quổc tịch của nước mà lúc đó trên thực tiễn người đó có mối quan hệ gắn bó nhất. ” Nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu được ghi nhận trong công ước La Haye năm 1930 có ý nghĩa cần thiết trong việc lựa chọn luật áp dụng. Mặt khác, Công ước La Haye cũng xác lập nguyên tắc bảo hộ ngoại giao đối với người có hai hoặc nhiều quốc tịch. Theo Điều 4 Công ước này, một quốc gia không được bảo hộ ngoại giao cho công dân nhà nước mình tại quốc gia khác mà người này cũng có quốc tịch và hiện đang cư trú. Ví dụ, công dân Pháp đồng thời có quốc tịch Hoa Kỳ sẽ không có được sự bảo hộ ngoại giao của nhà nước Pháp nếu công dân này cư trú ở Hoa Kỳ. Theo nguyên tắc này công dân Pháp đã nhập quốc tịch Hoa Kỳ và sinh sống ổn định tại Hoa Kỳ sẽ phải thực hiện tất cả các nghĩa vụ của công dân Hoa Kỳ trong đó có cả nghĩa vụ quân sự.

3. Nguyên tắc xác định quốc tịch

Nguyên tắc một quốc tịch

Nguyên tắc này còn được hiểu là nguyên tắc một quốc tịch triệt để. Luật quốc tịch các nước không quy định thành nguyên tắc cứng nhưng quan điểm 1 quốc tịch là quan điểm xuyên suốt toàn bộ nội dung của pháp luật quốc tịch các nước trên thế giới, chỉ trừ những trường hợp đặc biệt luật quy định thì công dân của nước đó mới được phép mang 2 quốc tịch.

Do tình trạng pháp lý đặc biệt của người 2 hay nhiều quốc tịch, nên trong pháp luật quốc tế cũng như pháp luật của các quốc gia đều quan tâm giải quyết. Trong những thập kỷ trước, vấn đề này được giải quyết theo hướng hạn chế, giảm tối đa tình trạng 2 hay nhiều quốc tịch, người đó thường trú hoặc cư trú chủ yếu ở nước ngoài và nếu họ đáp ứng các điều kiện quy định trong pháp luật quốc gia về thôi quốc tịch.

Về cơ bản, nguyên tắc một quốc tịch tự nó không có ý nghĩa loại bỏ ngay từ đầu sự kiện người có 2 quốc tịch. Đối với những quốc gia có quy định trong luật nguyên tắc 1 quốc tịch thì khi nảy sinh những vấn đề liên quan đến công dân của quốc gia đó đồng thời có quốc tịch khác, nguyên tắc 1 quốc tịch được áp dụng để xác định thẩm quyền giải quyết các vụ việc về đơn vị nhà nước mà người đó là công dân, chứ về nguyên tắc, không nhằm loại bỏ quốc tịch thứ 2 của đương sự liên quan. Còn trong quan hệ với quốc gia thứ ba, thì việc quốc gia thứ ba lựa chọn quốc tịch nào trong đó các quốc tịch mà đương sự đang có để giải quyết những vấn đề liên quan đến họ thường dựa trên 2 nguyên tắc: bình đẳng và quốc tịch hữu hiệu, chứ không dựa trên nguyên tắc một quốc tịch của pháp luật mỗi quốc gia.

Cũng cần phải thấy rằng, về phía cá nhân người có 2 quốc tịch, mặc dù có khó khăn nhất định khi cùng một lúc phải thực hiện nghĩa vụ công dân ở 2 nước khác nhau, nhưng thuận lợi do 2 quốc tịch mang lại cũng không phải nhỏ.

– Đối với công dân có nhiều hộ chiếu (đa quốc tịch), nhập cảnh bằng hộ chiếu nào sẽ được coi là công dân của nước đó và khi có xung đột sẽ được bảo hộ theo quốc gia trên hộ chiếu lúc nhập cảnh.

– Đối với quyền ứng cử, thông thường các quốc gia chỉ công nhận công dân ứng cử là công dân chỉ có một quốc tịch nước ứng cử. Do vậy, nếu ứng cử viên có nhiều quốc tịch sẽ không được tham gia ứng cử vào hệ thống chính trị hoặc là người đó phải từ bỏ quốc tịch khác của mình, thậm chí phải cư trú trên lãnh thổ quốc gia người này ứng cử một thời gian nhất định.

– Đối với quyền bầu cử, thông thường các quốc gia chậm phát triển hoặc đang phát triển tiềm lực kinh tế chưa lớn không quy định rõ ràng về việc công dân của mình ở nước ngoài có được bầu cử được không. Tuy nhiên, ở một số quốc gia phát triển thì công dân của họ ở nước ngoài có thể có quyền bầu cử thông qua các cách thức được tổ chức tại các đơn vị uỷ quyền ngoại giao, lãnh sự ở nước ngoài.

– Đối với trẻ em, thông thường các nước dành tối đa sự ưu đãi vì việc xung đột quốc tịch là rất ít, hiếm có. Việc tạo điều kiện cho trẻ em được công nhận nhiều quốc tịch để tối đa hóa quyền lợi mà trẻ em được hưởng và quy định để một độ tuổi nhất định khi trẻ em đó lớn lên sẽ được toàn quyền lựa chọn quốc tịch cho mình.

Nguyên tắc đa quốc tịch

Vì nhiều lý do chủ quan và khách quan, trong đó phần đáng kể là do sự khác biệt trong quy định pháp luật quốc tịch của các quốc gia nên dẫn tới tình trạng 1 người có 2 hoặc nhiều quốc tịch.

Để giải quyết những vấn đề liên quan tới người nhiều quốc tịch, các quốc gia lựa chọn cách tiếp cận dựa trên nguyên tắc một quốc tịch mềm dẻo. Về bản chất, nguyên tắc này không loại trừ khả năng 1 người có thể có 2 hoặc nhiều quốc tịch. Tuy nhiên, trong quan hệ với quốc gia sở tại thì quốc gia chỉ thừa nhận cá nhân có một quốc tịch của quốc gia đó. Ví dụ, Nhà nước Việt Nam chỉ công nhận công dân có quốc tịch Việt Nam ở trên lãnh thổ Việt Nam cho dù người này có nhiều quốc tịch khác. Mặc dù vậy, Việt Nam áp dụng nguyên tắc này một chiều, tức là người đã có quốc tịch Việt Nam nhưng vẫn có thể xin quốc tịch quốc gia khác mà không đương nhiên mất quốc tịch gốc; nhưng nếu người nước ngoài nhập quốc tịch Việt Nam thì phải thôi quốc tịch gốc trừ một số trường hợp ngoại lệ.

Ưu điểm của nguyên tắc trên đó là vừa đảm bảo nguyên tắc một quốc tịch, vừa đảm bảo nguồn lực phát triển, giúp các quốc gia xử lý linh hoạt hơn đối với trường hợp 2 hay nhiều quốc tịch, đặc biệt, nguyên tắc trên dung hòa giữa nguyên tắc một quốc tịch triệt để và nguyên tắc đa quốc tịch.

Trên đây là Quy định chi tiết Điều 4 Luật quốc tịch Việt Nam mà LVN Group muốn giới thiệu đến quý bạn đọc. Hi vọng nội dung trình bày sẽ hỗ trợ và giúp ích cho quý bạn đọc về vấn đề này!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com