Đối tượng điều chỉnh của Luật Quốc tịch [Cập nhật 2023] - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Đối tượng điều chỉnh của Luật Quốc tịch [Cập nhật 2023]

Đối tượng điều chỉnh của Luật Quốc tịch [Cập nhật 2023]

Trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, “quốc tịch” là một khái niệm ra đời vào thời kỳ xã hội đang chuyển dần từ chế độ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản. Đây là một chế định mới được giai cấp tư sản đưa ra nhằm thu hút và “lôi kéo” quần chúng nhân dân ủng hộ cuộc cách mạng nhằm lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập chính quyền mới của giai cấp tư sản. Vậy Đối tượng điều chỉnh của Luật Quốc tịch là gì? Hãy cùng LVN Group nghiên cứu qua nội dung trình bày dưới đây!

Đối tượng điều chỉnh của Luật Quốc tịch [Cập nhật 2023]

1. Đối tượng điều chỉnh của Luật Quốc tịch [Cập nhật 2023]

Quốc tịch là mối quan hệ pháp lý, có tính chất lâu dài, bền vững, ổn định, không bị giới hạn, giữa một cá nhân với một chính quyền nhà nước nhất định.

Quốc tịch còn được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật, điều chỉnh mối quan hệ xã hội phát sinh trong các điều kiện: có, mất, thôi, tước, hủy, trở lại quốc tịch.

Chế định này là một bước phát triển cần thiết trong lịch sử loài người, lần đầu tiên người dân sống trong một quốc gia đã có riêng cho mình một chế định mang tính pháp lý; đây cũng là lần đầu tiên họ được coi là “công dân” của một quốc gia chứ không phải là “thần dân” như trong xã hội phong kiến. Tuy nhiên, ý nghĩa về sự bình đẳng mà giai cấp tư sản hứa mang lại cho họ khi đưa ra chế định quốc tịch thời bấy giờ cũng chỉ là sự bình đẳng mang tính cách thức. Trên thực tiễn, chỉ có giai cấp tư sản – giai cấp nắm chính quyền mới được hưởng thụ một cách trọn vẹn nhất sự bình đẳng và lợi ích mà chế định này mang lại.

Hiện nay, do sự phát triển không ngừng của nền kinh tế-xã hội, cũng như sự gia tăng các học thuyết chính trị pháp lý về nhân sinh ngày càng nhiều hơn, các giá trị nhân văn ngày càng được trân trọng hơn, thì con người- với vai trò là chủ thể cơ bản hình thành nên  Điều này dẫn đến hệ quả tất yếu là khái[mỗi quốc gia ngày càng được quan tâm  niệm công dân và địa vị pháp lý của họ trong hệ thống pháp luật quốc gia đang được ghi nhận một cách đúng nghĩa nhất. Khi này, quốc tịch không còn là chế định mang tính cách thức, nó đã trở thành cách thức biểu đạt rõ nhất mối quan hệ hai chiều giữa một bên là nhà nước và một bên là công dân của họ.

Vì vậy, từ phương diện pháp lý quốc tế hiện đại, Luật quốc tịch Việt Nam là đạo luật với hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh và quy định về các vấn đề hưởng và mất quốc tịch Việt Nam, thay đổi quốc tịch Việt Nam của người chưa thành niên và của con nuôi; xác định trình tự, thủ tục, thẩm quyền của các đơn vị nhà nước.

2. Nội dung cơ bản và những điểm mới của Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008

Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 có 6 chương bao gồm 44 điều:

Chương I: Những quy định chung;

Chương II: Có quốc tịch Việt Nam;

Chương III: Mất quốc tịch Việt Nam;

Chương IV: Thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên và của con nuôi;

Chương V: Trách nhiệm của các đơn vị nhà nước về quốc tịch;

Chương VI: Điều khoản thi hành.

So với cấu trúc của Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 cũng có 6 chương tuy nhiên có tăng hơn 2 điều và Chương V có tên gọi khác với Luật năm 1998 (Thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch). Tên gọi của Chương V Luật năm 2008 thay đổi với mục đích nhấn mạnh đến trách nhiệm của đơn vị nhà nước trong việc giải quyết các Vấn đề về quốc tịch. Phân tích toàn bộ các chương và điều của Luật quốc tịch năm 2008, chúng ta thấy luật này có những nội dung cơ bản sau đây:

+ Nguyên tắc một quốc tịch mềm dẻo

Có thể khẳng định rằng nguyên tắc cơ bản thể hiện trong Chương I của Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 là nguyên tắc một quốc tịch mềm dẻo.

Nếu Điều 3 Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 có tên gọi là “nguyên tắc một quốc tịch” và Điều này quy định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận Công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam ” thì “nguyên tắc quốc tịch” là tên gọi của Điều 4 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008. Nguyên tắc quốc tịch được xác định lại ữong Luật năm 2008 là: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác Vì vậy có thể thấy Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 được xây dựng trên nguyên tắc một quốc tịch triệt để còn Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 được xây dựng trên nguyên tắc một quốc tịch mềm dẻo.

Nguyên tắc một quốc tịch mềm dẻo thể hiện ở chỗ một mặt Luật xác định ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch Việt Nam, mỗi thành viên của các dân tộc Việt Nam đều bình đẳng về quyền có quốc tịch Việt Nam, Nhà nước thừa nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, tuy nhiên Nhà nước cũng thừa nhận tình trạng một số người có hai hoặc nhiều quốc tịch (Dual or Plural Nationality).

Do công nhận thực hạng một số công dân có hai hoặc nhiều quốc tịch nên Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã bổ sung một điều quy định về việc giải quyết vấn đề phát sinh từ tình trạng công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài. Theo quy định tại Điều 12, vấn đề phát sinh từ tình trạng công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài được giải quyết theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trường hợp không có điều ước quốc tế thi được giải quyết theo tập cửa hàng và thông lệ quốc tế. Điều 12 cũng xác định nhiệm vụ của Chính phủ là kí kết hoặc đề xuất việc kí kết, quyết định gia nhập điều ước quốc tế để giải quyết vấn đề phát sinh từ tình trạng công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài. Đe giải quyết các xung đột pháp luật trong lĩnh vực quốc tịch, nhiều quốc gia đã kí kết một số điều ước quốc tế đa phương về vấn đề quốc tịch như Công ước La Haye năm 1930 về một số vấn đề liên quan tới xung đột quốc tịch, Công ước năm 1963 về việc giảm các trường hợp nhiều quốc tịch và về nghĩa vụ quân sự trong trường hợp nhiều quốc tịch, Công ước châu Âu năm 1997 về quốc tịch. Trong trường hợp nhiều quốc tịch, Công ước La Haye năm 1930 đã xác định nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu. Điều 5 của Công ước La Haye quy định: “Tại một nước thứ ba, một người có nhiều quốc tịch sẽ được coi như chỉ có một quốc tịch. Nước thứ ba sẽ chỉ công nhận duy nhất một trong sổ những quốc tịch mà người đỏ có hoặc công nhận quốc tịch của nước mà người đó thường trú và cư trú chủ yếu hoặc quổc tịch của nước mà lúc đó trên thực tiễn người đó có mối quan hệ gắn bó nhất. ” Nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu được ghi nhận trong công ước La Haye năm 1930 có ý nghĩa cần thiết trong việc lựa chọn luật áp dụng. Mặt khác, Công ước La Haye cũng xác lập nguyên tắc bảo hộ ngoại giao đối với người có hai hoặc nhiều quốc tịch. Theo Điều 4 Công ước này, một quốc gia không được bảo hộ ngoại giao cho công dân nhà nước mình tại quốc gia khác mà người này cũng có quốc tịch và hiện đang cư trú. Ví dụ, công dân Pháp đồng thời có quốc tịch Hoa Kỳ sẽ không có được sự bảo hộ ngoại giao của nhà nước Pháp nếu công dân này cư trú ở Hoa Kỳ. Theo nguyên tắc này công dân Pháp đã nhập quốc tịch Hoa Kỳ và sinh sống ổn định tại Hoa Kỳ sẽ phải thực hiện tất cả các nghĩa vụ của công dân Hoa Kỳ trong đó có cả nghĩa vụ quân sự.

+ Về chính sách quốc tịch cho những người đã sống ổn định trên lãnh thổ Việt Nam

Nếu như Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 không có quy định giải quyết quốc tịch cho cư dân không quốc tịch không có trọn vẹn các giấy tờ về nhân thân nhưng đã cư trú ổn định tại Việt Nam thì Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã giải quyết vấn đề này bằng quy định tại Điều 22: “Người không quốc tịch mà không có trọn vẹn các giấy tờ về nhăn thân, nhưng đã cư trú ốn định trên lãnh thổ Việt Nam từ 20 năm trở lên tính đến ngày Luật này có hiệu lực và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam thì được nhập quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục và hồ sơ do Chính phủ quy định

+ Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã luật hoá một số quy định về thủ tục, trình tự giải quyết các việc về quốc tịch trước đây thể hiện trong các văn bản dưới luật, qua đó làm cho Luật này có nhiều quy định về thủ tục cụ thể hon Luật năm 1998. Ví dụ: Điều 8 (quy định về hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam) Nghị định số 104/1998/NĐ-CP ngày 31/12/1998 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 đã được luật hoá và thể hiện trong Điều 20 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008; Điều 20 (Hồ sơ xin thôi quốc tịch Việt Nam) Nghị định nói trên cũng được luật hoá và thể hiện trong Điều 28 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008.

+ Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 thể hiện sự cải cách thủ tục hành chính làm cho các thủ tục nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch Việt Nam đơn giản hơn và rút ngắn hơn thời gian chờ đợi cho người làm thủ tục.

Theo quy định tại Điều 21 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 về trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam, người xin nhập quốc tịch Việt Nam nộp hồ sơ cho sở tư pháp nơi cư trú. Trong thời hạn 5 ngày (trước đây là 7 ngày) kể từ ngày nhận đủ hồ sơ họp lệ, sở tư pháp gửi văn bản đề nghị đơn vị công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xác minh nhân thân của người xin nhập quốc tịch Việt Nam; trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị của sở tư pháp, đơn vị công an cấp tỉnh có trách nhiệm xác minh nhân thân của người xin nhập quốc tịch và gửi kết quả đến sở tư pháp (thời gian này theo Nghị định số 104/1998/NĐ-CP ngày 31/12/1998 là 60 ngày). Trong thời hạn 10 ngày công tác, kể từ ngày nhận được kết quả xác minh, sở tư pháp có trách nhiệm hoàn tất hồ sơ trình chủ tịch UBND cấp tỉnh. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị của sở tư pháp, chủ tịch UBND cấp tỉnh có trách nhiệm xem xét, kết luận và đề xuất ý kiến gửi Bộ Tư pháp. Vì vậy, tổng số thời gian giải quyết các thủ tục nhập quốc tịch tại cấp tỉnh là 55 ngày, trong khi đó theo khoản 1 Điều 10 Nghị định số 104/1998/NĐ-CP ngày 31/12/1998 thời gian này là 4 tháng.

+ Giữ quốc tịch Việt Nam

Một điểm mới nữa quy định tại Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 là quy định về giữ quốc tịch Việt Nam. Khoản 2 Điều 13 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo hướng dẫn của pháp luật Việt Nam trước ngày Luật này có hiệu lực thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam và trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, phải đăng kỉ với đơn vị uỷ quyền Việt Nam ở nước ngoài để giữ quốc tịch Việt Nam. Chính phủ quy định trình tự, thủ tục đăng kí giữ quốc tịch Việt Nam

+ Cũng như Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988, 1998, Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã kết hợp nhuần nhuyễn hai nguyên tắc huyết thống (Jus Sanguinis) và lãnh thổ (Jus Soli) trong việc xác định quốc tịch trẻ em.

3. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quốc tịch Việt Nam năm 2014

Năm 2014, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã kí Lệnh số 10/2014/L-CTN ngày 26/6/2014 công bố Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quốc tịch Việt Nam. Luật này đã sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 13 của Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 bằng các quy định sau đây:

– Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam cho đến trước ngày Luật này có hiệu lực (ngày 26/6/2014) thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam;

– Người Việt Nam định cư ở nước ngoài chưa mất quốc tịch Việt Nam mà không có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam thì đăng kí với đơn vị uỷ quyền Việt Nam ở nước ngoài để được xác định có quốc tịch Việt Nam và cấp hộ chiếu Việt Nam;

– Việc người Việt Nam định cư ở nước ngoài chưa mất quốc tịch Việt Nam không đăng kí giữ quốc tịch Việt Nam với đơn vị uỷ quyền Việt Nam ở nước ngoài không phải là căn cứ xác định bị mất quốc tịch Việt Nam.

Với các quy định trên đây, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quốc tịch Việt Nam năm 2014 đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ quốc tịch Việt Nam, khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình, quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước, đảm bảo cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Trên đây là Đối tượng điều chỉnh của Luật Quốc tịch [Cập nhật 2023] mà LVN Group muốn giới thiệu đến quý bạn đọc. Hi vọng nội dung trình bày sẽ hỗ trợ và giúp ích cho quý bạn đọc về vấn đề này!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com