Luật kế toán quốc tế - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Luật kế toán quốc tế

Luật kế toán quốc tế

Luật kế toán do các đơn vị ban ngành nhà nước đặt ra nhằm đảm bảo quyền và nghĩa vụ tốt nhất cho doanh nghiệp, kế toán đồng thời giúp nhà nước dễ dàng quản lý mọi hoạt động. Bộ phận kế toán là bộ phận nòng cốt, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của doanh nghiệp, vì thế, luật kế toán có vai trò vô cùng cần thiết trong sự phát triển của doanh nghiệp. Bài viết Luật kế toán quốc tế dưới đây sẽ giới thiệu cho bạn đọc đặc điểm luật kế toán của một số nước trên thế giới.

Luật kế toán quốc tế

1. Liên minh châu Âu

Từ những năm 1995, Liên minh châu Âu (EU) đã bắt đầu có chiến lược hội nhập kế toán. EU đã áp dụng CMKT quốc tế được IASC ban hành với mục đích thiết lập chuẩn mực được chấp nhận bởi thị trường vốn toàn cầu. Tháng 6.2000 EU đã đề nghị các công ty niêm yết lập BCTC hợp nhất theo IAS/IFRS nhưng từng IAS/IFRS phải được xác nhận và thông qua luật tổ chức EU theo quy trình tổ chức riêng biệt. Mặt khác, tháng 3.2011, Tổ chức tư vấn BCTC của EU công bố chi tiết tiến trình hội tụ với IASB về các nội dung liên quan đến công cụ tài chính, thuê tài chính, điều kiện ghi nhận doanh thu và hợp đồng bảo hiểm. Đến 11.2011, Tổ chức này đang chờ thông qua các IFRS 1, IFRS 9, IFRS 10, IFRS 11, IFRS 12, IFRS 13 và đang chờ chỉnh sửa IAS1, IAS 12, IAS 19, IAS 21, IAS 28 cũng như điều chỉnh IFRIC 20.

Vì vậy có thể thấy, về nguyên tắc chung EU áp dụng hoàn toàn với IAS/IFRS tuy nhiên việc EU thông qua từng IAS/IFRS tạo nên hệ thống chưa thật sự đồng bộ so với IAS/IFRS bởi còn một số IAS/IFRS và các hướng dẫn chưa được thông qua. Vì vậy tính thống nhất trong hệ thống chuẩn mực chưa hoàn chỉnh. Do đó, CMKT của các quốc gia EU cũng khó được nhất cửa hàng và điều này dẫn đến việc áp dụng các nguyên tắc, qui định kế toán vào thực tiễn của các công ty sẽ tạo ra những khác biệt nhất định. 

Để làm sáng tỏ những nội dung trên, trong báo cáo của EC về việc thực thi IAS/IFRS của EU được công bố tháng 10.2007, EC đã sử dụng mô hình với 200 công ty niêm yết của 25 quốc gia trong EU của năm 2005 và 2006. Theo kết quả báo cáo, mặc dù các công ty đều áp dụng IAS/IFRS hoặc IAS/IFRS-EU (IAS/IFRS được thông qua bởi EU) nhưng các công ty của các quốc gia có những khác biệt nhất định, cụ thể: các BCTC của các công ty trình bày không rõ ràng; thiếu công bố về chính sách kế toán hoặc có công bố nhưng không phù hợp; những khác biệt trong chính sách kế toán của các công ty đối với ghi nhận doanh thu; phân loại tài sản tài chính, tài sản tài chính sẵn sàng để bán… Trên cơ sở đó, để tiếp tục đánh giá mức độ áp dụng của các công ty trong các quốc gia EU theo thời gian, EC đã phân tích 270 BCTC các quốc gia công bố năm 2006 và 2007 trong EU được EC công bố tháng 12.2008. Kết quả cho thấy những khác biệt cơ bản vẫn tồn tại trong thực tiễn trên BCTC của các công ty. Qua tổng kết hai báo cáo của EC, nhìn chung mức độ áp dụng trong thực tiễn của các công ty trong EU vẫn còn những khác biệt đáng kể. Điều đó phản ánh thực trạng rằng mặc dù áp dụng IAS/IFRS trong cùng khu vực kinh tế EU nhưng mức độ có thể khác nhau ở cấp độ quốc gia và thực tiễn các công ty.

Mặt khác, để nhìn nhận một cách khách quan, một nghiên cứu độc lập của Erlend Kvaal và Christopher Nobe (2009) đã đánh giá sự khác biệt trong thực tiễn về chính sách kế toán của IAS/IFRS của các quốc gia. Nghiên cứu đã sử dụng các BCTC của các công ty “blue chip” của 5 thị trường chứng khoán (TTCK) lớn nhất trong năm 2005 và 2006 với 5 quốc gia Úc, Pháp, Đức, Tây Ban Nha và Anh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc áp dụng IAS/IFRS trong thực tiễn còn những khác biệt đối với các quốc gia khác nhau. Vì vậy, rõ ràng trong thực tiễn, các quốc gia được sử dụng trong nghiên cứu đã đi ngược lại mục tiêu chung là xây dựng chuẩn mực toàn cầu chất lượng cao. Hơn nữa, Stefano Cascino (2009), đã phân tích thực nghiệm về sự khác biệt trong thực tiễn kế toán của các công ty niêm yết Đức và Ý.

2. Mỹ

Hoạt động hướng tới hội tụ của Hội đồng chuẩn mực kế toán tài chính của Mỹ (FASB) từ những năm 2002 – 2004 phải kể đến là thỏa hiệp Norwalk giữa IASB và FASB để phát triển chuẩn mực chất lượng cao. Thỏa hiệp đã nhất trí các nội dung cơ bản là tiếp tục hợp tác trong tương lai; thực hiện những dự án chung; hạn chế những khác biệt giữa nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung của Mỹ (US GAAP) và IAS/IFRS. Tuy nhiên, quá trình hợp tác là một thử thách lớn bởi tính pháp lý, sự can thiệp của các tổ chức thể chế chính trị, kinh tế, văn hóa… ảnh hưởng nhất định đến lộ trình hội tụ. Một trong những vấn đề gây cản trở đó là hệ thống kế toán của Mỹ trên cơ sở qui định (rules-based) trong khi IAS/IFRS theo những nguyên tắc (priciples-based). Bên cạnh đó, hệ thống kế toán của Mỹ thực thi theo các qui định nên được hướng dẫn một cách chi tiết trong khi IAS/IFRS hạn chế những hướng dẫn. Mặt khác hệ thống kế toán Mỹ bị chi phối bởi luật chứng khoán… Quá trình hội tụ cho thấy nhiều vấn đề khó khăn nhất định.

Mặc dù tiến trình hội nhập gặp những khó khăn nhất định nhưng Ủy ban chứng khoán Mỹ (SEC) đã có những động thái tích cực đối với IAS/IFRS. FASB và SEC đã thảo luận các vấn đề liên quan đến hội tụ kế toán quốc tế và cũng đã có các buổi họp định kỳ giữa FASB, SEC và IASB để thảo luận hướng phát triển trong thỏa hiệp Norwalk. Mặt khác, sự hội tụ của Mỹ thông qua SEC đã thấy sự chủ động của Mỹ khi hướng tới hệ thống chuẩn mực quốc tế. Trước đây, các công ty niêm yết sử dụng BCTC khác với Mỹ, khi niêm yết BCTC phải trình bày sự khác biệt lợi nhuận và vốn chủ sở hữu giữa GAAP của quốc gia báo cáo với US GAAP thông qua mẫu 20F (Form 20F). Thời gian gần đây, tiến trình hội tụ của Mỹ cho thấy SEC đã có những nỗ lực và thiện chí nhất định, cụ thể:

– Ngày 22.4.2005, SEC công bố lộ trình hướng tới hội tụ kế toán quốc tế theo IAS/IFRS bằng việc gỡ bỏ qui định các công ty nước ngoài niêm yết tại TTCK Mỹ có BCTC lập theo IAS/IFRS phải chỉnh hợp sang US GAAP theo Form 20F.

– Sau đó, ngày 15.11.2007 SEC đã bỏ phiếu thông qua cho phép các công ty nước ngoài niêm yết tại TTCK Mỹ được áp dụng IAS/IFRS. SEC tiến xa hơn bằng việc công bố lộ trình từ 2014 – 2016 các công ty Mỹ sẽ chuyển sang áp dụng IAS/IFRS.

– Đến ngày 27.8.2008, SEC quyết định chấp nhận sử dụng IAS/IFRS và lộ trình này là cơ sở để hình thành một chuẩn mực toàn cầu.

– Tháng 2.2010 SEC tái khẳng định lộ trình hội tụ trong thời gian đến 2015 – 2016 và vào tháng 7.2011, Chủ tịch SEC đã tuyên bố ủng hộ xây dựng hệ thống CMKT toàn cầu chất lượng cao trên cơ sở các IFRS.

Nhìn chung, sự hội tụ của FASB hướng tới CMKT quốc tế được nhiều người nhận định như phần còn lại của chuẩn mực toàn cầu. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng việc hội tụ là một thách thức lớn đối với cả hai tổ chức và hai tổ chức FASB – IASB đang khẩn trương, nỗ lực chạy nước rút cho tiến trình hội tụ và mọi vấn đề vẫn nằm ở phía trước.

3. Úc

Úc đã có những bước chuẩn bị nhất định cho việc chuyển đổi từ CMKT Úc sang IAS/IFRS từ năm 2002 và Úc đã chính thức chuyển sang áp dụng IAS/IFRS từ ngày 01.01.2005. Úc là một trong những quốc gia đầu tiên áp dụng IAS/IFRS. Tuy nhiên, Hội đồng chuẩn mực kế toán của Úc (AASB) đã xem xét việc ban hành IAS/IFRS tại riêng quốc gia. Theo đó, CMKT Úc đã có sự chỉnh sửa cho tương thích với môi trường pháp lý và những đặc điểm riêng biệt để phù hợp với Úc. CMKT Úc không đơn thuần là IAS/IFRS mà bản chất đã có sự thay đổi theo cách thức A-IAS/IFRS (IAS/IFRS đã được chuyển đổi theo Úc). Sự điều chỉnh của A-IAS/IFRS bao gồm những thay đổi trong việc lựa chọn được ban hành theo IAS/IFRS và bổ sung những hướng dẫn và thay đổi một số thuật ngữ khác so với IAS/IFRS. Chính sự điều chỉnh, bổ sung này dẫn đến A-IAS/IFRS không nhất cửa hàng với IAS/IFRS. Việc áp dụng IAS/IFRS theo phương cách trung lập A-IAS/IFRS của Úc đã tạo nên nhiều khác biệt không chỉ trong hệ thống CMKT mà ngay cả các công ty khi áp dụng vào thực tiễn.

Trong nghiên cứu về việc đo lường giá trị hợp lý, lựa chọn chính sách kế toán của hai quốc gia Anh và Úc, David Cairns et al. (2008) đã sử dụng mô hình 228 công ty tương ứng mỗi quốc gia 114 để đo lường trên BCTC những năm 2004 – 2006 với 20 khoản mục. Nhìn chung kết quả cho thấy việc thực thi IAS/IFRS của Úc không có sự khác biệt giữa trước và sau khi áp dụng IAS/IFRS. Mặt khác, trong một nghiên cứu thực nghiệm của Tyrone Carlin, Nigel Finch (2008) nhằm xác định giá trị lợi thế thương mại được thực hiện bởi các công ty Úc áp dụng theo IAS/IFRS trong hai năm 2006 và 2007. Mô hình nghiên cứu đã sử dụng BCTC của 50 công ty niêm yết lớn nhất của Úc. Qua thực nghiệm cho thấy, mức độ các công ty áp dụng nội dung về lợi thế thương mại trên bảng cân đối kế toán hầu hết không thỏa mãn yêu cầu. Vì vậy, CMKT của Úc hướng tới IAS/IFRS nhưng thực tiễn BCTC của các công ty không nhất cửa hàng. Các công ty không sẵn lòng thực hiện theo những yêu cầu IAS/IFRS.

Mặc dù Úc chấp nhận toàn bộ các chuẩn mực theo IAS/IFRS nhưng Úc vẫn có những điều chỉnh nhất định cho phù hợp với đặc điểm riêng của quốc gia. Việc xây dựng CMKT quốc gia như Úc là một hướng tiếp cận riêng, thể hiện chính sách trung lập trong việc thực thi CMKT quốc tế.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi về chủ đề: Luật kế toán quốc tế. Nếu quý khách hàng có bất kỳ câu hỏi liên quan đến chủ đề này có thể liên hệ trực tiếp với chúng tôi để nhận được câu trả lời nhanh chóng, chính xác nhất. Với đội ngũ luật sư và chuyên viên pháp lý nhiều kinh nghiệm, giỏi chuyên môn, chúng tôi tự tin cam kết cho Quý khách hàng dịch vụ pháp lý tốt nhất, nhanh nhất, giá cả hợp lý nhất.

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com