Sự cần thiết phải ban hành Luật Giao dịch Điện tử – Luật LVN Group - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Sự cần thiết phải ban hành Luật Giao dịch Điện tử – Luật LVN Group

Sự cần thiết phải ban hành Luật Giao dịch Điện tử – Luật LVN Group

Luật giao dịch điện tử 2005 là bộ luật được ban hành nhằm hướng dẫn các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thực hiện những giao dịch điện tử theo hướng dẫn của pháp luật và đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia. Trong nội dung trình bày này, Luật LVN Group sẽ gửi tới một số thông tin liên quan đến sự cần thiết phải ban hành Luật giao dịch điện tử. 

Căn cứ pháp lý 

Luật giao dịch điện tử 2005. 

1. Giao dịch điện tử là gì ? 

Theo giải thích tại Luật Giao dịch điện tử năm 2005 thì Giao dịch điện tử được hiểu là giao dịch được thực hiện thông qua các phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự.

Hiểu một cách đơn giản thì “giao dịch điện tử” chỉ giao dịch được thực hiện trên mạng, giao dịch được thực hiện mà không đòi hỏi các bên trong giao dịch trực tiếp mặt đối mặt chính diện trên thực tiễn trong cùng một không gian và thời gian như đối với giao dịch truyền thống.

2. Phân loại giao dịch điện tử. 

Hiện tại, dựa vào chủ thể tham gia giao dịch điện tử mà trên thực tiễn giao dịch điện tử được chia thành  9 nhóm như sau:

Nhóm 1: B2B: Business to Business: Doanh nghiệp với doanh nghiệp. Nhóm này được hiểu là giao dịch điện tử giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp. Đây cũng là cách thức giao dịch thương mại điện tử phổ biến ở Việt Nam hiện nay.

Nhóm 2: B2C: Business to Consumer: Doanh nghiệp với khách hàng. Nhóm này được hiểu là giao dịch điện tử được thiết lập giữa doanh nghiệp và khách hàng nhăm mục đích thương mại.

Nhóm 3: B2E: Business to Employee: Doanh nghiệp với chuyên viên. Đây là giao dịch điện tử được thiết lập giữa doanh nghiệp với chuyên viên. Kênh giao dịch này thường được áp dụng ở doanh nghiệp lớn nhằm mục đích thông tin, quản lý trong doanh nghiệp.

Nhóm 4: B2G: Business to Goverment: Doanh nghiệp với Chính phủ. Đây là nhóm giao dịch điện tử được thiết lập giữa doanh nghiệp và chính phủ nhằm mục đích cho việc mua bán giữa doanh nghiệp và khối hành chính công.

Nhóm 5: G2B: Coverment to Business: Chính phủ với doanh nghiệdp. Đây là nhóm giao dịch điện tử được thiết lập giữa Chính phủ (khối hành chính công) với Doanh nghiệp, các giao dịch điện tử này không mang tính chất thương mại mà thường là gửi tới các thông tin về pháp luật, quy chế, chính sách và các dịch vụ, thủ tục hành chính công trực tuyến cho doanh nghiệp. Đây là một trong các yếu tố chính để xây dựng Chính phủ điện tử. Việt Nam cũng đang trong tiến trình triển khai mô hình giao dịch điện tử này.

Nhóm 6: G2G: Goverment to Goverment: Chính phủ với Chính phủ. Đây là nhóm giao dịch điện tử được thiết lập giữa các tổ chức chính phủ khác nhau với nhau.

Nhóm 7: G2C: Goverment to Citizen: Chính phủ với Công dân. Đây là nhóm giao dịch điện tử được thiết lập giữa Chính phủ và Công dân nhằm triển khai các chính sách, thủ tục hành chính công.

Nhóm 8: C2C: Consumer to Consumer: Khách hàng với Khách hàng. Đây là nhóm giao dịch điện tử được thiết lập giữa người tiêu dùng với nhau. Biểu hiện của mô hình này là sàn thương mại điện tử hoạt động bằng cách thức bán đấu giá trực tuyên, rao vặt trên mạng.

Nhóm 9: Consumer to Business: Khách hàng với doanh nghiệp. Đây là nhóm giao dịch điện tử được thiết lập giữa người tiêu dùng và doanh nghiệp. Thể hiện qua việc doanh nghiệp thu thập ý tưởng hữu ích từ người tiêu dùng, người dùng gửi tới sản phẩm, vật liệu cho doanh nghiệp và doanh nghiệp trả tiền cho người dùng.

3. Luật giao dịch điện tử là gì ? 

Luật giao dịch điện tử 2005 là bộ luật được ban hành nhằm hướng dẫn các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thực hiện những giao dịch điện tử theo hướng dẫn của pháp luật và đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia.

4. Hiệu lực của Luật giao dịch điện tử có giá trị từ khi nào ? 

 

Luật giao dịch điện tử 2005 quy định về giao dịch điện tử trong hoạt động của các đơn vị nhà nước; trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại và các lĩnh vực khác.

Theo đó, nguyên tắc tiến hành giao dịch điện tử được Luật nêu rõ: lựa chọn giao dịch bằng phương tiện điện tử là tự nguyện của đơn vị, tổ chức, cá nhân, được tự thỏa thuận về việc lựa chọn công nghệ để thực hiện giao dịch; không một công nghệ nào được xem là duy nhất trong giao dịch điện tử, bảo đảm sự bình đẳng và an toàn…

Luật công nhận và bảo vệ hợp đồng điện tử. Giá trị của hợp đồng không thể bị phủ nhận chỉ vì hợp đồng đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu. Trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, thông báo dưới dạng thông điệp dữ liệu có giá trị pháp lý như thông báo bằng phương pháp truyền thống.

Nhà nước công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài nếu chữ ký hoặc chứng thư điện tử đó có độ tin cậy tương đương với độ tin cậy của chữ ký và chứng thư điện tử theo hướng dẫn của pháp luật.

5. Những điều khoản cần lưu ý trong các văn bản Luật giao dịch điện tử. 

Việc đọc hết toàn bộ các văn bản trên để nắm được tính pháp lý của hợp đồng điện tử trong các giao dịch sẽ tiêu tốn rất nhiều thời gian, chưa kể những văn bản luật này còn được sửa đổi và bổ sung thường xuyên. Các doanh nghiệp chỉ cần nắm những điều luật sau đây để biết mình cần phải lưu ý gì.

Khái niệm về hợp đồng điện tử

Theo như Điều 33 của văn bản 51/2005/QH11 quy định: “Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu theo hướng dẫn của Luật này.”

Giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử

Theo như Điều 34 của văn bản 51/2005/QH11 quy định: “Giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử không thể bị phủ nhận chỉ vì hợp đồng đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu.”

Nguyên tắc giao kết hợp đồng điện tử

Theo như Điều 35 của văn bản 51/2005/QH11 quy định:

– Các bên tham gia có quyền thỏa thuận sử dụng phương tiện điện tử trong giao kết và thực hiện hợp đồng;

– Việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử phải tuân thủ các quy định của Luật này và pháp luật về hợp đồng;

– Khi giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, các bên có quyền thoả thuận về yêu cầu kỹ thuật, chứng thực, các điều kiện bảo đảm tính toàn vẹn, bảo mật có liên quan đến hợp đồng điện tử đó.

Giá trị pháp lý của thông báo trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử

Theo như Điều 38 của văn bản 51/2005/QH11 quy định:

– Trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, thông báo dưới dạng thông điệp dữ liệu có giá trị pháp lý như thông báo bằng phương pháp truyền thống.

6. Tổng hợp các văn bản hướng dẫn Luật giao dịch điện tử. 

– Luật giao dịch điện tử 2005 ( Luật 51/2005/QH 11 về giao dịch điện tử) 

NĐ 130/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật 51/2005/QH11 về giao dịch điện tử chữ ký số, chứng thực chữ ký số

NĐ 165/2018/NĐ-CP về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính

NĐ 45/2020/NĐ-CP về Thực hiện thủ tục Hành chính trên môi trường điện tử

7. Sự cần thiết của việc ban hành bộ Luật giao dịch điện tử. 

Luật Giao dịch điện tử (GDĐT) đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 3 năm 2006. Luật GDĐT 2005 được xây dựng trên cơ sở Luật mẫu về Thương mại điện tử của Ủy ban Liên hiệp quốc về Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL). Luật GDĐT được xem là luật khung, quy định những vấn đề kỹ thuật, đặc thù phát sinh trên môi trường điện tử.

Triển khai thực hiện Luật, các bộ, ngành đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn chi tiết theo từng lĩnh vực. Đây là cơ sở pháp lý cần thiết để xác định rõ trách nhiệm quản lý nhà nước của các bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; bảo đảm sự phân công, phối hợp, thực hiện phát triển và ứng dụng GDĐT trong cả nước.

Sau gần 15 năm thực hiện, Luật GDĐT cùng với các Luật Công nghệ thông tin 67/2006/QH11, Luật Viễn thông số 41/2009/QH12, Tần số và Vô tuyến điện số 42/2009/QH12, An toàn thông tin mạng số 86/2015/QH13, An ninh mạng số 24/2018/QH14 và các luật chuyên ngành khác tạo hành lang pháp lý hỗ trợ đẩy mạnh mẽ ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), thúc đẩy GDĐT, góp phần nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế-xã hội, đưa ứng dụng khoa học, công nghệ vào cải cách hành chính.

Mặc dù có những đóng góp tích cực đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, tuy nhiên, trước bối cảnh công nghệ thay đổi nhanh chóng, Luật GDĐT 2005 vẫn bộc lộ một số vấn đề tồn tại, hạn chế như sau:

Các tồn tại, hạn chế của Luật GDĐT 2005

Thứ nhất, Luật GDĐT năm 2005 là Luật khung, được ban hành sớm, sau khi có Luật mẫu của Liên Hợp Quốc (UNCITRAL). Nội dung cơ bản bám theo Luật mẫu của Liên Hợp Quốc nên còn mang tính khung và mang tính nguyên tắc chung. Luật mẫu của Liên Hợp Quốc có xu hướng viết cho các nước đã phát triển, nơi có hệ thống, pháp luật và văn hoá khá khác biệt với Việt Nam. Vì vậy, khi áp dụng vào Việt Nam thì nảy sinh một số bất cập khó thực thi trong thực tiễn, đặc biệt là đối với vấn đề đảm bảo giá trị pháp lý của giao dịch điện tử.

Thứ hai, do là Luật khung, mang tính nguyên tắc, nên trong 15 năm qua chỉ có một số lĩnh vực chịu áp lực lớn của hội nhập quốc tế, có nhu cầu cấp thiết tự thân, tiên phong nghiên cứu xây dựng các văn bản dưới luật quy định chi tiết để thực thi và ứng dụng mạnh mẽ giao dịch điện tử, điển hình như lĩnh vực Thông tin và Truyền thông (chữ ký số), Ngân hàng (thanh toán điện tử), Tài chính (giao dịch chứng khoán, chứng từ điện tử, thuế điện tử, hải quan điện tử) và Thương mại điện tử. Với nhiều lĩnh vực khác, việc áp dụng giao dịch điện tử vẫn khó khăn do thiếu các quy định cụ thể của Luật GDĐT 2005. Hơn nữa, Luật GDĐT 2005 còn loại trừ không áp dụng cho khá nhiều lĩnh vực cần thiết trong đời sống, kinh tế và xã hội.

Thứ ba, trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay, đặc biệt do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nhu cầu giao dịch điện tử đã bùng phát mạnh mẽ trong tất cả các lĩnh vực hành chính, dân sự, kinh tế và xã hội, môi trường và phương thức giao dịch cũng có nhiều thay đổi với sự xuất hiện ngày càng nhiều các nền tảng số làm trung gian cho các giao dịch điện tử trực tuyến, đòi hỏi phải có khung pháp lý phù hợp đáp ứng nhu cầu thực tiễn, đảm bảo thể chế pháp luật phải theo kịp sự phát triển.

Thứ tư, việc sửa đổi Luật GDĐT (sửa đổi) nhằm thể chế hóa trọn vẹn, kịp thời đường lối, chủ trương của Đảng tại Nghị quyết số 52/NQ-TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và chính sách của Nhà nước về chuyển đổi số quốc gia, góp phần thúc đẩy phát triển ổn định kinh tế – xã hội của đất nước; tạo hành lang pháp lý hoàn thiện để thực hiện chuyển đổi các hoạt động từ môi trường thực sang môi trường số trong tất cả các ngành, lĩnh vực; khắc phục những bất cập, tồn tại, hạn chế của Luật hiện hành, đặc biệt là đối với vấn đề bảo đảm giá trị pháp lý của giao dịch điện tử; luật hóa các vấn đề thực tiễn yêu cầu và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật hiện hành.

Nguyên nhân của các hạn chế

a) Nguyên nhân khách quan
Những hạn chế trong quy định của Luật GDĐT, cũng như trong công tác thi hành Luật bắt nguồn từ các nguyên nhân khách quan sau:

Thứ nhất, Luật GDĐT được xây dựng vào thời gian ngành CNTT của Việt Nam cũng như hoạt động GDĐT, Chính phủ điện tử và thương mại điện tử chưa phát triển. Sau 15 năm, cùng với sự phát triển đột phá của khoa học và công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn, sinh trắc học, blockchain v.v đã tạo điều kiện thuận lợi cho ứng dụng và phát triển GDĐT sâu rộng hơn. Ứng dụng công nghệ mới trong GDĐT đã phát sinh những vấn đề mới mà Luật GDĐT chưa quy định.

Thứ hai, sau 15 năm triển khai, đất nước có nhiều tiến bộ về kinh tế và xã hội. Đất nước ta hội nhập sâu rộng hơn với sự tham gia các hiệp định thương mại tự do như: hiệp định trong khuôn khổ WTO, AFTA, CPTPP, EVFTA, v.v. Trong giai đoạn mới, cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra với công cuộc chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, chính phủ số đặt ra nhiều thách thức về chính sách và mô hình quản lý GDĐT.

Thứ ba, trong quá trình 15 năm thực thi đã có nhiều Luật chuyên ngành liên quan được ban hành như: Bộ Luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Đầu tư, Luật An toàn thông tin mạng, Luật An ninh mạng, v.v. và các văn bản hướng dẫn. Nhiều quy định chồng chéo, mâu thuẫn hoặc trùng lặp với các quy định chuyên ngành.

b) Nguyên nhân chủ quan
Luật GDĐT được ban hành vào thời gian ứng dụng công nghệ thông tin và GDĐT ở giai đoạn ban đầu, có nhiều vấn đề chưa được nhận diện. Vì vậy, trong quá trình thực thi các quy định còn thiếu đã gây khó khăn cho công tác xây dựng văn bản hướng dẫn, triển khai thực tiễn.

Do đó, việc xây dựng dự án Luật GDĐT (sửa đổi) trình Quốc hội xem xét thông qua là rất cần thiết, nhằm hiện thực hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng, giải quyết những vướng mắc, bất cập trong thực thi Luật GDĐT 2005, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy chuyển đổi số, xã hội số, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các quy định pháp luật có liên quan.

Trên đây là nội dung nội dung trình bày của Luật LVN Group về “Sự cần thiết của việc ban hành Luật Giao dịch điện tử”. Bài viết trên là những thông tin cần thiết mà quý bạn đọc có thể áp dụng vào đời sống thực tiễn. Trong thời gian cân nhắc nếu có những vướng mắc hay thông tin nào cần chia sẻ hãy chủ động liên hệ và trao đổi cùng luật sư để được hỗ trợ đưa ra phương án giải quyết cho những vướng mắc pháp lý mà khách hàng đang mắc phải. 

 

 

 

 

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com