Tham nhũng cán bộ là gì ? [Chi tiết 2023] - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Tham nhũng cán bộ là gì ? [Chi tiết 2023]

Tham nhũng cán bộ là gì ? [Chi tiết 2023]

Việc thu hồi tài sản tham nhũng là một trong những tiêu chí đánh giá về công tác phòng chống tham nhũng.Vậy câu hỏi đặt ra,Tham nhũng cán bộ là gì ? [Chi tiết 2023].Để trả lời cho câu hỏi này, mời các bạn đọc nội dung trình bày sau đây của chúng tôi !. 

1.Thu hồi tài sản tham nhũng là gì?

1.1.Khái niệm tham nhũng:

– Theo khoản 1 Điều 3 Luật phòng, chống tham nhũng 2018, tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi. Hay nói cách khác, tham nhũng là hành vi lợi dụng quyền hành để gây phiền hà, khó khăn và lấy của dân.

– Khoản 3 Điều 3 Luật phòng, chống tham nhũng 2018 quy định về tài sản tham nhũng, thì tài sản tham nhũng là tài sản có được từ tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng.

–  Các hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong đơn vị, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước thực hiện bao gồm các hoạt động cụ thể như sau: Tham ô tài sản; Nhận hối lộ; Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;  Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; Giả mạo trong công tác vì vụ lợi; Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của đơn vị, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công vì vụ lợi; Nhũng nhiễu vì vụ lợi; Không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không trọn vẹn nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.

– Các hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước thực hiện bao gồm các hoạt động cụ thể như sau: Tham ô tài sản; Nhận hối lộ; Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh nghiệp, tổ chức mình vì vụ lợi.

1.2.Tham ô tài sản

Tham ô là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý, căn cứ tại Điều 353 trong Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.

Vậy dựa vào 2 khái niệm là tham ô và tham nhũng chúng ta có thể phân biệt tham ô và tham nhũng?, mời quý vị cân nhắc tiếp nội dung dưới đây để nắm rõ.

2.Các hành vi tham nhũng theo hướng dẫn của pháp luật hiện hành

Bộ luật hình sự, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã phân loại tham nhũng theo hành vi. Theo đó, những hành vi sau đây thuộc nhóm hành vi tham nhũng:

– Tham ô tài sản.

– Nhận hối lộ.

– Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.

– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.

– Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi. – Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi. – Giả mạo trong công tác vì vụ lợi.

– Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của đơn vị, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi.

– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi. – Nhũng nhiễu vì vụ lợi. – Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.

– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi. Trong 12 hành vi tham nhũng nêu trên, có 7 hành vi đã được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999; được sửa đổi, bổ sung ngày năm 2009 trước đây và có hiệu lực từ ngày 1-1-2010, bao gồm:

– Tham ô tài sản: là lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý.

– Nhận hối lộ: là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ cách thức nào để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ – Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.

– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi: là việc cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây tổn hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân – Lạm quyền trong khi thi hành công vụ: là cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà vượt quá quyền hạn của mình làm trái công vụ gây tổn hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi: là việc cá nhân lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ cách thức nào, gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, để dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm một việc không được phép làm

– Giả mạo trong công tác: là cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây:

+ Sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu;

+ Làm, cấp giấy tờ giả;

+ Giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn . Hành vi thứ 8 đến hành vi thứ 12 mới được bổ sung do đây là những hành vi đã phát sinh và đang trở nên phổ biến trên thực tiễn, cần được quy định cụ thể làm cơ sở pháp lý cho việc xử lý.

So với những hành vi tham nhũng tại Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998 và các tội phạm về tham nhũng trong Bộ luật hình sự năm 1999; được sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì Luật phòng, chống tham nhũng có bổ sung 5 hành vi tham nhũng mới. Đây là những hành vi xuất hiện ngày càng phổ biến trong thời gian gần đây. Việc quy định thêm 5 loại hành vi mới này là cần thiết và là cơ sở pháp lý để đấu tranh với những biểu hiện ngày càng phức tạp của tham nhũng. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi tham nhũng đều bị xử lý về hình sự mà chỉ những hành vi hội đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm quy định trong Bộ luật hình sự thì mới được xác định là tội phạm và bị xử lý bằng biện pháp hình sự, (các hành vi được quy định từ khoản 1 đến khoản 7, Điều 3 của Luật) còn những hành vi khác (từ khoản 8 đến khoản 12, Điều 3 của Luật) được xác định là hành vi tham nhũng nhưng chưa cấu thành tội phạm thì được xử lý bằng biện pháp kỷ luật. – Về hành vi “đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của đơn vị, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi”: Đây là một biểu hiện mới của tệ tham nhũng. Do vẫn còn tồn tại cơ chế “xin – cho” trong nhiều lĩnh vực nên có nhiều cá nhân uỷ quyền cho đơn vị, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương đã tìm cách hối lộ cho người có chức vụ, quyền hạn phụ trách việc phê duyệt chương trình, dự án, cấp kinh phí, ngân sách để được lợi cho đơn vị, tổ chức, đơn vị, địa phương mình và thông qua đó để đạt được các lợi ích cá nhân. Hành vi này được coi là hành vi tham nhũng. Điều cần lưu ý là hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ là tội danh được quy định trong Bộ luật hình sự không thuộc nhóm các tội phạm về tham nhũng mà thuộc nhóm các tội phạm về chức vụ. Còn hành vi đưa hối lộ, làm môi giới hối lộ được thực hiện bởi chủ thể có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của đơn vị, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi thì mới được coi là hành vi tham nhũng. Hành vi này vừa chịu sự điều chỉnh của pháp luật hình sự với tội danh tương ứng (nếu hành vi đó cấu thành tội phạm), vừa là hành vi tham nhũng theo sự điều chỉnh của pháp luật về tham nhũng.

– Về hành vi “lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản nhà nước vì vụ lợi”: Đây là hành vi lợi dụng việc được giao quyền quản lý tài sản của nhà nước để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc một nhóm người nào đó thay vì phục vụ cho lợi ích công. Biểu hiện cụ thể của hành vi này thường là cho thuê tài sản như: nhà xưởng, trụ sở, xe ôtô và các tài sản khác nhằm vụ lợi. Số lượng tài sản cho thuê nhiều khi lớn.

– Về hành vi “nhũng nhiễu vì vụ lợi”: Nhũng nhiễu là hành vi đã được mô tả trong phần thuật ngữ khái niệm. Cần nhấn mạnh thêm hành vi này xuất hiện trong hoạt động của một số đơn vị công quyền, nhất là tại các đơn vị hành chính, nơi trực tiếp giải quyết công việc của công dân và doanh nghiệp. Một số cán bộ, công chức không thực hiện trách nhiệm với thái độ công tâm và tinh thần phục vụ mà ngược lại thường tìm cách lợi dụng những sơ hở hoặc không rõ ràng của các thủ tục, thậm chí tự ý đặt ra các điều kiện gây thêm khó khăn cho công dân và doanh nghiệp để buộc công dân và doanh nghiệp biếu xén cho mình quà cáp. Thực chất của hành vi này là sự ép buộc đưa hối lộ được che đậy dưới cách thức tinh vi rất khó có căn cứ để xử lý. Cũng có thể coi hành vi nhũng nhiễu là hành vi “đòi hối lộ” một cách gián tiếp hoặc ở mức độ chưa thật nghiêm trọng và có thể dùng biện pháp xử lý hành chính. – Về hành vi “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi”. Hành vi tham nhũng nhiều khi được che chắn thậm chí là có sự đồng lõa của những người có chức vụ, quyền hạn ở cấp cao hơn. Vì vậy, việc phát hiện và xử lý tham nhũng là hết sức khó khăn. Việc bao che cho người có hành vi tham nhũng, việc cản trở quá trình phát hiện tham nhũng có khi được che đậy dưới rất nhiều cách thức khác nhau như: thư tay, điện thoại, nhắc nhở, tránh không thực hiện trách nhiệm của mình hoặc có thái độ, việc làm bất hợp tác với đơn vị có thẩm quyền…

– Hành vi “không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi” là hành vi thường được gọi là “bảo kê” của những người có trách nhiệm quản lý, đặc biệt là một số người công tác tại chính quyền địa phương cơ sở, đã “lờ” đi hoặc thậm chí tiếp tay cho các hành vi vi phạm để từ đó nhận lợi ích từ những kẻ phạm pháp.

3.Thực trạng và bất cập của việc thu hồi tài sản tham nhũng

3.1. Thực trạng của việc thu hồi tài sản tham nhũng

– Thu hồi tài sản tham nhũng là cả một quá trình gồm nhiều giai đoạn và liên quan đến nhiều đơn vị thẩm quyền khác nhau như: từ khâu phòng ngừa và phát hiện việc chuyển tài sản do tham nhũng mà có ; ra lệnh tịch thu tài sản ; phong tỏa, tạm giữ tài sản ; nhận dạng, truy tìm và phong tỏa hay tạm giữ tài sản ; yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự, hành chính, hình sự ; thực hiện thi hành phần dân sự trong các bản án hình sự về tham nhũng … Là một trong những nội dung của tố tụng nên về cơ bản thu hồi tài sản có sự gắn kết mật thiết với tương trợ tư pháp trong tất cả các lĩnh vực dân sự, hình sự, dẫn độ, hành chính.

– Hiện nay, Nhà nước đang đẩy mạnh quá trình thu hồi tài sản tham nhũng. Công tác phòng chống tham nhũng ngày càng được đẩy mạnh, do đó, việc tìm kiếm, phát hiện ra các đối tượng có hành vi tham nhũng ngày càng nhiều. Cơ quan chức năng có thẩm quyền sẽ xem xét, điều tra xem tổng tài sản mà đối tượng tham nhũng thực hiện hành vi tham nhũng được là bao nhiêu, từ đó lấy lại tài sản bị tham nhũng để đưa vào ngân sách chung của Nhà nước.

– Thực tế, khi thực hiện thu hồi tài sản tham nhũng, Nhà nước tiến hành thu hồi tài sản thông qua các phương thức cơ bản sau đây:

+ Thu hồi tài sản trên bản án hình sự:Theo phương thức thu hồi tài sản trên bản án hình sự này, sau khi có phán quyết của Tòa án đối với bị cáo phạm tội. Việc thu hồi tài sản do phạm tội mà có được thực hiện bằng việc ban hành và thực hiện quyết định thu hồi tài sản. Những chủ thể là những người thực thi pháp luật sẽ phải thu thập chứng cứ, tìm kiếm và bảo vệ tài sản, thực hiện truy tố đối với cá nhân hoặc pháp nhân và có được phán quyết của toà án. Sau khi có phán quyết, toà án có thể ban hành lệnh tịch thu tài sản. Trong trường hợp tài sản do phạm tội mà có đã được tẩu tán sang quốc gia khác, phương thức thu hồi tài sản sẽ dựa trên truy tố hình sự sẽ được thực hiện thông qua cơ chế hợp tác quốc tế giữa các quốc gia. Mục đích của việc truy tố và tịch thu hình sự thực chất đó chính là sự công nhận của xã hội về bản chất tội phạm hình sự của tham nhũng và trách nhiệm của người vi phạm. Thêm vào đó, các cách thức phạt tù, phạt tiền và tịch thu tài sản góp phần răn đe, ngăn ngừa các vi phạm tương tự sau này.

+ Tịch thu không dựa trên bản án hình sự: Tịch thu không dựa trên bản án hình sự sẽ không cần thông qua xét xử và bản án hình sự, mà chỉ tiến hành quy trình tịch thu. Nhằm mục đích chính đó là để có thể nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản do phạm tội mà có, khắc phục những hạn chế của biện pháp thu hồi dựa trên truy tố hình sự , một số quốc gia chọn biện pháp thu hồi tài sản do phạm tội mà có mà không cần dựa trên bản án hình sự hay gọi là thu hồi dân sự.

+Thu hồi tài sản thông qua phán quyết hành chính: Thực tế, thu hồi tài sản thông qua quyết định hành chính sẽ không liên quan đến bất cứ quyết định buộc tội, thủ tục tố tụng tại tòa án hoặc thậm chí quyết định tư pháp, mà Nhà nước đưa ra một cơ chế phi tư pháp để thu hồi tài sản. Biện pháp thu hồi tài sản thông qua quyết định hành chính này được tiến hành trên cơ sở thẩm quyền được trao cho các đơn vị nhà nước hoặc theo các thủ tục được quy định trong các văn bản pháp luật và thường được sử dụng để giải quyết các trường hợp thu hồi tài sản không mang tính chất tranh chấp.

+ Thu hồi tài sản thông qua kiện dân sự: Theo phương thức thu hồi tài sản thông qua kiện dân sự này, đơn vị nhà nước tìm cách thu hồi lại các tài sản do phạm tội mà có, tài sản tham nhũng có thể lựa chọn việc khởi kiện tại các tòa án dân sự trong nước hoặc ở nước ngoài. Các đơn vị này có thể khởi kiện đòi bồi thường dựa trên cơ sở hành vi sai trái, vi phạm hợp đồng, giàu lên bất chính, và những vấn đề khác. Kiện dân sự này là một dạng hành vi dân sự giữa hai cá nhân tại các tòa án, nguyên đơn khởi kiện về những tổn hại bởi hành vi của bị đơn để yêu cầu được bồi thường tương xứng.

3.2. Bất cập của việc thu hồi tài sản tham nhũng

– Trên thực tiễn, việc thu hồi tài sản thất thoát, bị chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế luôn được chú trọng, được coi là một trong những tiêu chí để đánh giá hiệu quả của công tác phòng chống tham nhũng.

– Đảng và Nhà nước đã và đang đẩy mạnh quá trình thu hồi tài sản tham nhũng. Tuy nhiên, tài sản thu hồi được so với tài sản thất thoát vẫn có sự chênh lệch tương đối lớn. Điều này cho thấy, tài sản thu về từ việc thu hồi tài sản tham nhũng không đạt được ở mức tương đối.

– Tình trạng bỏ lọt tài sản trong quá trình thu hồi tài sản tham nhũng vân vẫn diễn ra khá phổ biến. Có rất nhiều đối tượng sau khi tham nhũng đã tiến hành tẩu tán tài sản. Do đó, khi bị phát giác, tài sản có được do tham nhũng mà những đối tượng này sở hữu không còn nhiều. Công tác điều tra thiếu chặt chẽ khiến tài sản được tẩu tán không bị thu hồi lại. Đây được xem là một trong những bất cập phổ biến nhất trong công tác thu hồi tài sản do tham nhũng.

Phòng chống tham nhũng là công cuộc điều tra trường kỳ của Đảng và Nhà nước ta. Để công cuộc đấu tranh này giành được thắng lợi trọn vẹn trên mọi mặt trận.trận, những bất cập về điều tra tham nhũng, thu hồi tài sản tham nhũng cần được khắc phục. 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com